Sáng kiến kinh nghiệm Dạy tốt Lịch sử 4
Dân tộc Việt Nam có một lịch sử lâu đời với nhiều thành tựu và chiến công huy hoàng rất đáng tự hào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu của mình. Như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử nước mình vì đó là đạo lí muôn đời của dân tộc “ Uống nước nhớ nguồn”. Thông qua môn Lịch Sử học sinh tiếp nhận những nét đẹp của đạo đức, của đạo lí làm người Việt Nam; vì chính đó là cái gốc của mọi sự nghiệp lớn hay nhỏ của dân tộc không phải chỉ ở thời xưa mà cả ngày nay và mai sau.
Thế nhưng, trong nhiều năm qua, do những nguyên nhân khách quan ( khó khăn về kinh tế, xã hội) và chủ quan ( nhận thức, quan niệm không đúng), chất lượng học tập lịch sử ngày càng giảm sút, đến mức báo động. Những năm gần đây, nhiều báo, tạp chí ở trung ương và địa phương đã lên tiếng về tình trạng giảm sút chất lượng một cách nghiêm trọng về môn lịch sử. Nhiều thanh niên không biết Hùng Vương là ai, nói sai về Trần Quốc Toản, cho rằng Lí thường Kiệt là một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc… Nhiều học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên không biết về các nhân vật, sự kiện lịch sử đặt tên cho các đường phố, mà họ đang sống hay rất quen thuộc.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy tốt Lịch sử 4

u lịch sử tất cả đều nhằm phục vụ cho việc dạy học ở trên lớp với mục đích qua bài học học sinh phát huy được tính tích cực của mình thông qua phân môn lịch sử. Trước kia chúng ta thường quan niệm học lịch sử là phải học thuộc, nạp vào bộ nhớ của học sinh theo lối thày đọc, trò chép, học thuộc lòng theo thày, theo sách giáo khoa là đạt yêu cầu. Hay nói ngắn gọn như cách nói của nhà xã hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi phương pháp dạy học này là “ Hệ thống ban phát kiến thức”, là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang đầu trò. Nhưng học tập lịch sử theo quan niệm hiện đại không phải là theo cách trên mà là: học sinh thông qua làm việc với sử liệu mà tạo ra hình ảnh lịch sử, tự xây dựng, tự hình dung về quá khứ lịch sử đã diễn ra. Cơ sở nhận thức cá thể, độc lập đó, bằng các biện pháp tương tác xã hội (học theo nhóm, học cả lớp, đối thoại thày trò...)mà học sinh xây dựng sự nhận thức đúng đắn về môn lịch sử. Muốn làm được điều đó khi dạy học trên lớp, giáo viên cần phải tiến hành qua các bước sau: Bước thứ nhất: Giáo viên cần phải định hướng được mục đích, nêu nhiệm vụ nhận thức của tiết học. Ví dụ: Bài “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo” phần giới thiệu bài giáo viên nói: Cảnh trong tranh mô tả một trận đánh nổi tiếng trong lịch sư chống giặc ngoại xâm của nước ta hơn một nghìn năm trước. Vậy đó là trận đánh nào? Xảy ra ở đâu? Diễn biến, kết quả và ý nghĩa của nó như thế nào? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua bài hôm nay “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo”. Bước thứ hai: Học sinh đọc tài liệu sách giáo khoa, xem tranh ảnh.bản đồ, nghiên cứu đọc thêm tư liệu, trao đổi thảo luận nhóm, cá nhân. Học sinh làm phiếu học tập - đại diện nhóm trình bày, các bạn trong lớp nghe và góp ý kiến. Ví dụ: Bài “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng” Khi tìm hiểu cuộc khởi nghĩa đã diễn ra như thế nào , toi yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa từ đoạn : “ Mùa xuân năm 40 thắng lợi” kết hợp với quan sát lược đồ để nắm dược những nét chính, sau đó yêu cầu một vài học sinh lên trình bày diễn biến của cuộc khởi nghĩa trên lược đồ. Để khắc sâu những hình ảnh sinh động về cuộc khởi nghĩa, tôi sử dụng tư liệu lịch sử, kết hợp với lược đồ để tường thuật lại như sau: “Do căm thù quân xâm lược nhà Hán, Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa đền nợ nước , trả thù nhà. Khi nghe tiếng trống của Hai Bà Trưng nổi lên, nhân dân đổ về tụ nghĩa. Trên bành voi cao, nữ chủ tướng mặc giáp phục đẹp đễ, oai phong. Dân trong vùng hò reo dậy đất, ào ào tiến theo. Trước khí thế tiến công như vũ bão của đoàn quân khởi nghĩa, trụ sở của nhà Hán trên đất Mê Linh phút chốc đã tan tành. Dân Mê Linh đạp bằng dinh luỹ giặc rồi tiến xuống đánh chiếm Cổ Loa (Đông Anh- Hà Nội). Rồi từ Cổ Loa tấn công Luy Lâu, trung tâm của chính quyền đô hộ. Thành Luy Lâu cũng không đương đầu nổi với cuộc công phá của một biển người ào ào dũng mãnh theo hiệu trống đồng của hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị. Trong vòng chưa đầy một tháng, cuộc khởi nghĩa đẫ hoàn toàn thắng lợi. Đất nước sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng đựơc cả nước suy tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh”. Chính nhờ việc sử dụng phong phú đồ dụng dạy học giúp học sinh gần gũi với các sự kiện, nhân vật lịch sử hơn dễ gây cho các em ấn tượng sâu sắc, hứng thú tìm tòi, học tập. Nó tạo điều kiện cho học sinh dễ nhớ, nhớ lâu phát triển năng lực chú ý quan sat, óc tò mò khoa học. Đặc biệt, nó phù hợp với đặc điểm nhận thức, đặc điểm lứa tuổi của các em. Bước thứ 3: Giáo viên chốt lại hoặc liên hệ mở rộng. Việc giáo viên chốt lại kiến thức, khẳng định kiến thức hoặc liên hệ mở rộng là việc làm rất cần thiết. Bởi vì: những thông tin học sinh thu lượm được còn rời rạc, kiến thức mà các em thu lượm được khác nhau, đôi khi sai lệch hoặc chưa chuẩn. Chính vì vậy, giáo viên phải chốt lại chuẩn kiến thức, từ đó mở rộng vừa tầm học cho học sinh, gây cho các em sự hứng thú trong giờ học. * Để gây hứng thú cho học sinh học lịch sử , giáo viên có thể tổ chức các trò chơi lịch sử. Ở đây cần phân biệt trò chơi lịch sử với việc thi tìm hiểu lịch sử. Trò chơi lịch sử không đòi hỏi học sinh phải hiểu biết sâu rộng, chuẩn bị lâu và kĩ, mà phải dựa vào vốn hiểu biết sẵn có hoặc vừa thu lượm được của người tham dự, sự thông minh nhanh trí và tiến hành dưới các hình thức vui chơi. Hình thức này rất phù hợp với sự sôi nổi của học sinh và có ý nghĩa giáo dục.Tuy vậy, cần đạt những yêu cầu sau: - Trò chơi phải có mục đích giáo dục rõ rệt, có nội dung phong phú, với nhiều hình thức thích hợp phát huy sự ham hiểu biết, giàu trí tưởng tượng, biết suy luận, nhanh trí, khéo tay, sôi nổi nhưng không ồn ào, tư duy sâu sắc nhưng không quá trầm lặng. - Trò chơi phải thu hút đông đảo học sinh tham gia - Trong trò chơi, người làm chủ là học sinh, song giáo viên có vai trò rất quan ; vừa là người hướng dẫn, tổ chức trò chơi, vừa là người tham gia khéo léo dẫn dắt các em đạt kết quả tốt. Một số loại trò chơi lịch sử: “ Thi đố kiến thức về lịch sử ” , “ô chữ”, “ô số” , “ súc sắc”, “ lập niên biểu”, “ Trò chơi mật mã” Trò chơi ô chữ ( Bài 16: Chiến thắng Chi Lăng) Cách chơi: + Ô chữ gồm 7 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc. Cách chơi như sau: + Cả lớp chia thành 4 đội chơi + Các đội chơi lần lượt chọn từ hàng ngang, giáo viên sẽ đọc gợi ý về từ hàng ngang, đội chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời. Nếu sai, hoặc sau 30 giây không có câu trả lời thì đội khác được quyền đoán. + Mỗi từ hàng ngang được 10 điểm, từ hàng dọc được 30 điểm. + Trò chơi kết thúc khi có đội tìm ra từ hàng dọc. + Đội nào có điểm cao hơn là đội thắng cuộc - Nội dung ô chữ và gợi ý cho từng ô: 1 2 3 4 6 7 Mưu đồ của nhà Minh bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại. ( cứu viện ) Quê cuả Lê Lợi ( Thanh Hoá ) Chỗ qua lại hẹp và hiểm trở ở biên giới hoặc trên đường tiến vào một nước (ải) Người lãnh đạo trận Chi Lăng. ( Lê Lợi ) Tướng giặc tử trận ở ải Chi Lăng. ( Liễu Thăng ) Nghĩa quân Lam Sơn đã thắng giặc này. ( Minh ) Tên thủ đô Hà Nội năm 1407 (Đông Quan ) Từ hàng dọc: CHI LĂNG. Trò chơi lập niên biểu Trò chơi này thường được chơi ở các tiết ôn tập Ví dụ bài 20 : Ôn tập - Chuẩn bị: Giáo viên ghi sẵn 7 thẻ thời gian, 7 thẻ ghi tên các sự kiện, chúng được sắp xếp lộn xộn - Cách chơi: + Chia lớp thành 2 đội chơi. + Trong cùng 1 khoảng thời gian, đội nào sắp xếp đúng nhanh nhất thì đội đó thắng cuộc - Nội dung các thẻ: 968 1. Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. 981 2. Kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất 1010 3.Nhà Lí dời đô ra Thăng Long 1075-1077 4. Kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai 1226 5. Nhà Trần thành lập 1258-1288 6. Kháng chiến chống quân xâm lược Mông- nguyên 1426 7. Chiến thắng Chi Lăng Tổ chức thực nghiệm (Giáo án). Bài soạn phân môn lịch sử lớp 4. Bài 7: ĐINH BỘ LĨNH DẸP LOẠN 12 SỨ QUÂN Mục đích yêu cầu: Kiến thức: Học xong bài này, học sinh biết: - Tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất: loạn lạc, chia cắt thành 12 vùng, nền kinh tế bị tàn phá, dân nghèo khổ, kẻ thù lăm le ngoài bờ cõi. - Đinh Bộ Lĩnh đã có công thống nhất đất nước, lập nên nhà Đinh Kĩ năng: Biết quan sát bản đồ, tranh ảnh, lập bảng so sánh Thái độ: Căm ghét sự chia rẽ, bè phái, có ý thức giữ gìn sự thống nhất của đất nước. Chuẩn bị: Giáo viên: - Lược đồ 12 sứ quân ( Sách giáo khoa lịch sử lớp 7) -1 số tranh ảnh trong sách giáo khoa và sưu tầm thêm ảnh đền thờ vua Đinh - Phiếu học tập - Bản đồ Việt nam Lên lớp: Thời gian Nội dung các hoạt động dạy học Phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động dạy học tương ứng Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh 1 2 3 4 5’ 2’ 8’ 20’ 5’ A. Kiểm tra bài cũ: Bài 6 B.Bài mới: 1. Giới thiệu bài: 2. Phát triển: HĐ1: Tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất HĐ2: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân và thống nhất đất nước 3. Củng cố- Dặn dò: - Gọi 3 học sinh lên bảng, yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi: + Nêu tên hai giai đoạn lịch sử đầu tiên trong lịch sử nước ta, mỗi giai đoạn bắt đầu từ năm nào đến năm nào? + Khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra vào thời gian nào và có ý nghĩa như thế nào đối với lịch sử dân tộc? + Chiến thắng Bạch Đằng xảy ra vào thời gian nào và có ý nghĩa như thế nào đối với lịch sử dân tộc? Giáo viên nhận xét và cho điểm học sinh. Giáo viên phóng to bức tranh dân gian trong sách giáo khoa treo lên bảng rồi hỏi học sinh: Các con có biết nhân vật lịch sử nào được khắc hoạ trong bức tranh này? Từ một cậu bé ham trò chơi tập trận, sau đã trở thành người dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Vậy tại sao Đinh Bộ Lĩnh phải dẹp loạn 12 sứ quân, và ông đã dẹp loạn 12 sứ quân như thế nào? Muốn hiểu được điều đó, chúng ta cùng tìm hiểu bài học ngày hôm nay. Yêu cầu học sinh cả lớp dựa vào phần đầu của bài trong sách giáo khoa để tìm bối cảnh đất nước sau khi Ngô Quyền mất. Giáo viên bổ sung và nhấn mạnh các ý: + Triều đình lục đục, tranh nhau ngai vàng. + Đất nước bị chia cắt thành 12 vùng bởi loạn 12 sứ quân. + Dân chúng đổ máu, đồng ruộng , làng mạc bị tàn phá. + Kẻ thù lăm le ngoài bờ cõi. - Giáo viên chốt lại ý chính và ghi lên bảng: Đất nước bị chia cắt bởi loạn 12 sứ quân. - Để khắc sâu hình ảnh đất nước bị chia cắt thành 12 vùng, giáo viân treo bản đồ 12 sứ quân lên bảng rồi giới thiệu cho học sinh - Giáo viên hỏi tiếp: + Trước tình cảnh đất nước bị chia cắt như vậy, lịch sử dân tộc đặt ra điều gì? + Vậy ai sẽ là người đứng ra làm việc đó? Yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, làm việc theo nhóm đôi, kết hợp với quan sát H1 để trả lời câu hỏi: Đinh Bộ Lĩnh là người như thế nào? Giaó viên bổ sung tư liệu, kể chuyện về thân thế gia đình, tuổi ấu thơ và khi trưởng thành của Đinh Bộ Lĩnh, đạc biệt nhấn mạnh đến các tính cách nổi bật của ông ( là người cương nghị, có mưu cao, chí lớn; là người chỉ huy quân sự có tài, được nhân dân mến yêu.) Giáo viên hỏi tiếp: Đinh Bộ Lĩnh đã có công gì? Cho học sinh thảo luận nhóm đôi để trả lời câu hỏi: Đinh Bộ Lĩnh là người như thế nào? Giáo viên bổ sung thêm tư liệu, kể chuyện đi dẹp loạn của ông rồi chốt lại ý chính, ghi lại ý chính lên bảng: Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước. Giáo viên hỏi: Sau khi thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh đã làm gì? Giáo viên giải thích các từ: + Hoàng: Là Hoàng đế, ý muốn nói vua nước ta ngang hàng với Hoàng đế Trung Hoa. + Đại Cồ Việt: nước Việt lớn + Thái Bình: Yên ổn, không có loạn lạc, chiến tranh. Cho học sinh quan sát toàn cảnh Hoa Lư ngày nay ( Hình 2 ) và gi ới thiệu vài nét về vị trí kinh đô của nước ta thời đó: Hoa Lư tuy nhỏ hẹp, giao thông không thuận tiện, nhưng là nơi có núi non hiểm trở, thích hợp với một vị trí lợi hại về phòng ngự quân sự. Cho học sinh tìm hiểu thêm lí do vì sao nhân dân ủng hộ Đinh Bộ Lĩnh Yêu cầu các nhóm lập bảng so sánh về tình hình đất nước trước và sau khi thống nhất theo mẫu Sau khi các nhóm hoàn thành báo cáo kết quả, giáo viên hoàn thành bảng đó như sau ( phần cuối giáo án ) Qua bài học, em có suy nghĩ gì về Đinh Bộ Lĩnh? Giáo viên kết luận: Đinh Bộ Lĩnh là người có tài, lại có công lớn dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, đem lại cuộc sống hoà bình, ấm no cho nhân dân. Chính vì thế mà nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn của ông. Để tỏ lòng biết ơn ông, nhân dân ta đã xây dựng đền thờ ông ở Hoa Lư, Ninh Bình trong khu di tích cố đô Hoa Lư xưa - Treo bản đồ Việt Nam, yêu cầu học sinh chỉ tỉnh Ninh Bình Tổng kết giờ học, dặn dò học sinh về nhà học thuộc bài, trả lời các câu hỏi cuối bài và chuẩn bị bài sau. 3 học sinh lên bảng thực hiện yêu cầu. Cả lớp theo dõi và nhận xét - Lắng nghe - Quan sát và trả lời câu hỏi - Lắng nghe - Đọc sách giáo khoa - Lắng nghe - Học sinh ghi vở - Quan sát, theo dõi trên bản đồ - phải dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. - Đinh Bộ Lĩnh - Đọc sách giáo khoa và trả lời câu hỏi - Lắng nghe - Thảo luận nhóm đôi và trả lời: + Đinh Bộ Lĩnh đã xây dựng lực lượng ở quê nhà ( Hoa Lư) + Đem quân đi đánh dẹp các sứ quân. + Thống nhất được giang sơn - Lắng nghe - Học sinh ghi vở + Đinh Bộ lĩnh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Đinh Tiên Hoàng + Đóng đô ở Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, niên hiệu là Thái Bình - lắng nghe - Quan sát và lắng nghe - Do nhân dân cực khổ, đổ máu vô ích vì chiến tranh, loạn lạc; do nhân dân yêu mến Đinh Bộ Lĩnh - Học sinh lập bảng - 3-4 học sinh phát biểu ý kiến về nhân vật lịch sử Đinh Bộ lĩnh - Lắng nghe - Học sinh thực hiện yêu cầu của giáo viên trên bản đồ - Lắng nghe Thời gian Các mặt Trước khi thống nhất Sau khi thống nhất Đất nước Triều đình Đời sống của nhân dân Bị chia thành 12 vùng Lục đục Làng mạc, đổng ruộng bị tàn phá Đất nước quy về một mối Được tổ chức lại quy củ Đồng ruộng trở lại xanh tươi, ngược xuôi buôn bán. Kết quả bước đầu thu được. Kết quả về chất lượng: So với đầu năm chất lượng của các em về môn lịch sử hiện nay đã tiến bộ rõ rệt. Tất cả các bài kiểm tra đột xuất, báo trước, kiểm tra miệng các em đều đạt từ 8 trở lên. Kết quả về tình cảm với bộ môn: Trước đây, lớp tôi các em rất sợ khi đến giờ lịch sử và không thích học. Còn đến nay, các em chờ đón được học một tiết sử hiếm hoi trong tuần với tất cả lòng nhiệt tình và h ào hứng của mình. Kết quả năng lực học tập của học sinh: Từ sự tự tin, từ năng lực chủ động, phát huy tính tích cực của mình trong giờ lịch sử, các em đã coi mỗi tiết sử là một ngày hội. một cuộc thi nho nhỏ để tìm ra kiến thức mới, được trở lại khí thế hào hùng của dân tộc trước kia đã cách xa các em rất lâu.Từ đó làm cho các em thêm yêu quê hương, yêu đất nước hơn. CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN CHUNG Bài học rút ra qua thực nghiệm đề tài Nói tóm lại để dạy tốt phân môn lịch sử lớp 4, người giáo viên cần phải phối hợp các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học lịch sử thật đa dạng. Muồn làm được điều đó, giáo viên phải thực hiện: - Nắm vững chương trình. - Nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn. - Sưu tầm tư liệu, tranh ảnh để minh hoạ. - Chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc dạy học. Có như vậy thì thầy cũng nhàn mà học sinh cũng hứng thú, tạo hiệu quả cao trong những tiết lịch sử. Một vài đề xuất: Sở và Bộ cần tạo điều kiện trang bị cho nhà trường các bộ tranh ảnh lịch sủ dùng cho tiểu học, có sách tham khảo lịch sử cho giáo viên, các loại băng hình, tư liệu về các danh nhân( như chương trình Danh nhân Đất Việt của Đài truyền hình Việt Nam) Thành phố nên tổ chức thi hoc sinh giỏi một năm một lần môn lịch sử vì đây là môn học giúp học sinh “Tìm về cội nguồn dân tộc”. Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được trong nhiều năm giảng dạy môn lịch sử lớp 4, phần nào đã đáp ứng được yêu cầu của bộ môn tự nhiên xã hội nói chung và phân môn lịch sử nói riêng. Song những kết quả đạt được chỉ là bước đầu. Rất mong được sự góp ý kiến của các ban ngành và các đồng nghiệp để sao cho việc dạy học ph ân môn lịch sử ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo trong nhà trường tiểu học. Hà Nội, ngày 10/3/2006 Người viết Phạm Thị Hằng
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_day_tot_lich_su_4.doc