Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng
Trong hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam đã được hình thành suốt hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, nổi trội hơn cả là tinh thần yêu nước. Theo giáo sư Trần Văn Giàu: tình cảm, tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của dân tộc ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu của ngành giáo dục là “bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quêhương, gia đình vàtự tôn dân tộc, lý tưởngxã hội chủ nghĩa, nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học…”. Tiếp đó, chỉ thị số 14/2011/CT-TTG ngày 11/06/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông có mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương, gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc”. Như vậy, giáo dục thế hệ trẻ hiện nay phải giáo dục con người có lòng yêu quê hương, đất nước.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng

Thiết bị tài liệu dạy - học: Tranh ảnh và các hiện vật trưng bày trong phòng truyền thống. Sách báo viết về cụ Huỳnh Thúc Kháng. Lịch sử trường Quốc học Vinh - THPT Huỳnh Thúc Kháng (1920- 2010). Tiến hành tổ chức dạy học: Bài cũ: Đã hướng dẫn học sinh về nhà tìm hiểu cuốn lịch sử trường và các tài liệu viết về cụ Huỳnh Thúc Kháng nên sẽ kiểm tra trong quá trình đọc bài. Dẫn dắt và bài: Tổ chức hoạt động dạy học trên lớp Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm Hỏi: Dựa vào những hiểu biết của mình em hãy trình bày về thân thế và sự nghiệp của Cụ Huỳnh Thúc Kháng? I. Tiểu sử cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947): - Huỳnh Thúc Kháng tên thật là Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm - HS trả lời Giáo viên kết luận: Huỳnh Hanh. + Huỳnh Thúc Kháng tên thật là Huỳnh Hanh, tự: Đối Sanh, hiệu là Minh Viên; có nhiều bút danh như: Sĩ Bình Tử; Xa Túc Tử sinh năm 1876 tại làng Thanh Bình, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình nho học. Sinh năm 1876 tại làng Thanh Bình, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Năm 1904 đỗ tiến sỹ nhưng không ra làm quan. Ông tham gia tích cực vao phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ. - Năm 1908: ông bị Pháp bắt và đày ra Côn Đảo. - Năm 1921: được trả tự do và tiếp tục tham gia phong trào yêu nước. => Huỳnh Thúc Kháng là tấm gương tiêu biểu cho lòng yêu nước, tận trung với nước với dân. Cụ vừa là chiến sỹ cách mạng nhưng cũng là một nhà thơ lớn với thơ chữ Hán, chữ Nôm, chính luận. Cách mạng tháng 8 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Cụ tham gia chính phủ liên hiệp, giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1946). Tháng 6 → 10/1946 Cụ được giao trọng trách quyền Chủ tịch nước. Tấm gương tiêu biểu cho lòng yêu nước, tận trung với nước, là nhà thơ lớn. II. Lịch sử trường 1. Trường Quốc học Vinh (College De Vinh 1920 - 1945) GV hỏi: Trường được thành lập vào thời gian nào? Tên gọi khi mới thành lập là gì? HS nghiên cứu lịch sử trường và trả lời: * Ngày đầu thành lập: - Ngày 1/9/1920 Trường Quốc học Vinh (College De Vinh). Tiếp nhận học sinh ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. GV kết luận Trường Quốc học Vinh được thành lập trên mảnh đất địa linh nhân kiệt. Xứ Nghệ là đất phát tích của nhiều nhân tài kiệt xuất của đất nước. Đặc biệt là nơi chôn rau cắt rốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trường ra đời trong khoảng thời * Mục đích: đào tạo lớp người có trình độ học vấn cao để phục vụ cho chính sách cai trị của thực dân Pháp và truyền bá văn hóa Pháp. => Đào tạo quan lại và tay sai người bản xứ. - Trường được dạy bằng tiếng Pháp. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm gian mà phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh của nhân dân vung Nghệ Tĩnh được dâng cao. Ngày 1/9/1920 Trường Quốc học Vinh được thành lập theo cách gọi của người Pháp là College De Vinh. Tiếp nhận học sinh ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Khi mới thành lập trường chưa có đại điểm riêng và học tạm ở trường tiểu học Cao Xuân Dục và hội quan Trí Tri. Từ năm 1922 trường chính thức học ở quán Thầu đâu (gần bến xe Vinh). HS trả lời: 37 học sinh Hỏi: Mục đích ban đầu của việc thành lập trường? Mục đích đó có đạt được hay không? Vì sao? HS: nghiên cứu trả lời GV kết luận: Hỏi: Trong thời gian trường mang tên Quốc học Vinh từ 1920 - 1945 đã có những giáo viên và học sinh tiêu biểu nào? Trong thời gian mang tên trường Quốc học Vinh đã có nhiều giáo viên và học sinh tiêu biểu người Pháp và người Việt. Người Pháp: Thầy hiệu trưởng Surrugue rất điềm đạm, thầy Hypolyte le Breton có uy tín với giáo viên và học sinh, thầy Boulerand rất đôn hậu và cô giáo người Pháp đức độ, tận tụy với học sinh như cô Surrugue, cô Vlaveanos Thầy giáo người Việt như: Lê Ấm (1897-1976) thầy Lê Thước (1891 - 1975); thầy Nguyễn Hiệt Chi (1970- 1935); thầy Trần Đình Đàn Hiệu trưởng là người Pháp. Ông hiệu trưởng đầu tiên là Surrugue (1920) và hiệu trưởng cuối cùng là Michel (1941). Giáo viên: gồm người Pháp và Việt Nam. Sau khi tiếp thu nguồn tri thức mới học sinh của trường đã phát huy truyền thống yêu nước tích cực tham gia nhiều phong trào yêu nước như: 1924: biểu tình đội ân xá Cụ Phan Bội Châu. 1927: Tham gia lễ truy điệu của cụ Phan Chu Trinh. 1929: Thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của trường và là 1 trong 3 chi bộ đầu tiên ở Vinh. Đồng chí Nguyễn Tiềm học sinh của trường là bí thư đầu tiên của Đảng bộ Nghệ An. Giáo viên: + Người Pháp: Thầy hiệu trưởng Surrugue, thầy Hypolyte le Breton, thầy Boulerand, cô giáo người Pháp cô Surrugue, cô Vlaveanos + Người Việt như: Lê Ấm; thầy Lê Thước; thầy Nguyễn Hiệt Chi; thầy Trần Đình Đàn + Học sinh: Tôn Quang Phiệt; Đặng Thai Mai; Nguyễn Sỹ Sách; Nguyễn Tiềm; Phạm Tiều; Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Cảnh Toàn; Nguyễn Mạnh Cầm 2. Từ trường QHV đến trường phổ thông cấp 3 HTK (1945- 1950) * Thời kỳ chuyển tiếp trường QHV đến trường TH Đinh Công Trứ Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm Học sinh tiêu biểu: Tôn Quang Phiệt (1900-1937); Đặng Thai Mai (1902- 1997); Nguyễn Sỹ Sách (1907-1929); Nguyễn Tiềm (1912-1932); Phạm Tiều (1904-1986); Hoàng Xuân Hãn (1908- 1996), Nguyễn Cảnh Toàn; Nguyễn Mạnh Cầm GV giới thiệu về hoàn cảnh đổi tên trường QHV thành tên trường TH Đinh Công Trứ: (1945-1950) Hoàn cảnh nước ta sau CMT8 Trong hoàn cảnh đó, trường QHV đổi thành tên trường TH Đinh Công Trứ. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) thực hiện tiêu thể kháng chiến, trường dời lên Nam Đàn. - Năm 1950 Sở giáo dục liên khu IV quyết định sát nhập một phần của chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng lúc đó đang đóng ở Đức Thọ (Hà Tĩnh) (Chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng có tiền thân là trường TH Khải Định- một phần của quốc học Huế tản cư ra Hà Tĩnh lấy tên nhà chí sỹ yêu nước là Huỳnh Thúc Kháng đặt tên cho trường) vào trường Nguyễn Công Trứ và đổi tên là TH Huỳnh Thúc Kháng chuyển lên xã Bạch Ngọc - Đô Lương - Nghệ An). Năm 1947- 1948: dời về Tân Hợp Nam Đàn Năm 1950: sát nhập một phần của chuyên khoa HTK ở Đức Thọ và trương Nguyễn Công Trứ thành TH Huỳnh Thúc Kháng. * Trường phổ thông cấp III Huỳnh Thúc Kháng (1950 -1951 -> 1953- 1954) Thời kỳ này trường đóng ở xã Bạch Ngọc, Đô Lương. Hỏi: Thời kỳ này có những giáo viên tiêu biểu nào? - Thời kỳ này có nhiều giáo viên tận tụy với sự nghiệp giáo dục như thầy Lê Hải Châu, Nguyễn Trọng Di, Đào Đăng Hy, Lê Trí Viễn, Nguyễn Cảnh Toàn, Hà Thúc Chính - Thầy trò hăng say học tập dạy tốt, học tốt, lao động sản xuất, tự túc sản xuất lương thực, tham gia vào kháng chiến chống Pháp - Học sinh là những giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ như Nguyễn Đình Tứ, Hà Học Trạc, Đinh Ngọc Lân, Vũ Ngọc Khánh - Giáo viên giải thích trường mang tên cấp III Huỳnh Thúc Kháng với những lý do sau: + Do yêu cầu của giáo dục triển khai chương trình cải cách lần thứ 2. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm + Do việc sát nhập trường TH Nguyên Công Trứ với trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng từ năm học 1950- 1951. - Nhiều học sinh sau đó trở thành những người có tên tuổi như: Phan Hữu Dật, Trọng Bằng, Trần Thanh Đạm, Nguyễn Minh Châu, Đào Trọng Đức 3. Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng (những năm 1955-1975) * Giai đoạn 1955-1965: - 1955 trường chuyển từ Bạch Ngọc về Vinh đóng ở xã Hưng Thủy. - GV giới thiệu quá trình chuyển từ Bạch Ngọc về Vinh: - 1957 dời về đóng ở khu trường Sư phạm cấp 1. + Năm 1955 trường chuyển từ Bạch Ngọc về Vinh đống ở xã Hưng Thủy (nay là Bến Thủy, Trườn Đại học Vinh ngày nay), học sinh khắp nơi trong tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh xin vào học, học sinh Bình Trị Thiên vượt tuyến ra Bắc học. + Năm 1957 trường chuyển về trường sư phạm cấp 1. Hội đồng giáo viên được tăng cường thêm từ từ các trường về và giáo viên vừa tốt nghiệp đại học sư phạm. Phương pháp giảng dạy thay đổi, học sinh chăm lo và tự giác trong học tập. - Năm 1960: trường dời về cơ sở mới xóm Trường Tiến, Hưng Bình sau đó đổi tên là trường cấp 3 Vinh. * Giai đoạn từ 1965-1975: - Năm 1965 Mĩ ném bom Miền Bắc, trường sơ tán nhiều nơi + 1965 lên Hưng Tây - Năm 1960: trường dời về cơ sở mới xóm Trường Tiến, Hưng Bình. Năm học 1959- 1960 ở Đô Lương và Diễn Châu thành lập trường cấp 3 nên học sinh rút về học và sau đó đổi tên là trường cấp 3 Vinh. Trường có nhiều học sinh đạt giải miền Bắc, có tỷ lệ đậu tốt nghiệp cao, liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến nhiều học sinh được cử đi học nước ngoài, nhiều em tình nguyện vào nam tham gia chiến đấu. + 1968 chuyển lên nông trường 1/5 ở Nghĩa Đàn - Năm 1965 Mĩ ném bom bắn phá, trường bị hư hại nhiều và học sinh phải Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm sơ tán về xã Hưng Tây. Thầy và trò đào lán lợp, đào hầm hào để đảm bảo an toàn cho các lớp học. Việc dạy học được thực hiện trong các căn hầm chữ A nửa nổi nửa chìm chứa được 50 học sinh. Trong những năm trường sơ tán lên Hưng Tây giặc Mỹ đã hơn 20 lần ném bom đạn gây nhiều thương vong cho trường, 05 em học sinh và một nhân viên của trường bị thiệt mạng. Năm 1968 giặc Mỹ ném bom bắn phá trường sơ tán từ Hưng Tây lên nông trường 1/5 ở Nghĩa Đàn. Thầy trò ở đan xen trong nhà công nhân, làm lán tre nứa, làm hầm chữ A. Học kỳ II năm 1968-1969 trường chuyển từ nông trường 1/5 về tạm học ở Hưng Tây. Năm 1970 trường từ Hưng Tây về Vinh, cơ ngơi của trường lại bị giặc Mỹ phá tan tành, thầy trò từng bước khắc phục xây dựng lại trường lớp, nhà trường phải đặt lớp học và nhà công vụ rải rác ở nhiều nơi trong đó có khoa sinh Trường Đại học Vinh ở Hưng Bình. Năm 1971 địch đánh phá thành phố Vinh trường lại sơ tán về Hưng Tây và Hưng Thái. Học kỳ I năm học 1971 - 1972 địch bắn phá thành phố Vinh và các vùng lân cận thầy trò vượt Sông Lam đến xã Nam Phúc huyện Nam Đàn. Nhưng trước bom đạn của giặc Mỹ ngày càng ác liệt và căng thẳng hết học kỳ I của năm học 1971-1972 trường rời xã Nam Phúc sơ tán lên xã Thanh Hà, huyện Thanh Chương. Sau khi hiệp định Pari được ký kết vào ngày 27/1/1973 Mỹ chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam. + 1970 trường chuyển về Vinh + 1971 sơ tán về Hưng Tây và Hưng Thái + Năm học 1971-1972 sơ tán lên xã Thanh Hà - Thanh Chương Vượt qua mưa bom bão đạn nhưng thầy trò vẫn hăng say học tập và đạt nhiều thành tích. Năm 1973 trường chuyển về Vinh 4. Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng (Những năm 1975 - 2010). * Những năm 1975 - 1985. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm Trường được lệnh chuyển về Vinh. Về Vinh trường được tọa lạc trên một mảnh đất rộng rãi trên đường Lê Hồng Phong (nay là trường Chính trị Nghệ An) hệ thống lớp học được mở rộng, học sinh tăng lên, cơ sở vật chất tăng lên, giáo viên và nhân viên cũng được tăng lên. GV Hỏi: Trong thời gian từ năm 1955 đến 1975 trường Huỳnh Thúc Kháng đã có những giáo viên và học sinh tiêu biểu nào? Trong thời gian này có nhiều thầy giáo tiêu biểu như: Nguyễn Cửu Cúc, Hoàng Kim Hải, Hoàng Triều, Nguyễn Đức Bính, Lê Trung Thuận, Nguyễn Tài Đại, Phạm Nhượng là nhưng thầy giáo hiệu trưởng của nhà trường từ năm 1955- 1975. Thầy Nguyễn Văn Đàn, Hoàng Thiệu Khang, Nguyễn Văn Bàng, Ninh Viết Giao, Tôn Gia Các Nhiều học sinh trong thời kỳ này đã nhận được những trọng trách ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Hồ Tế (Bộ trưởng Bộ Tài chính), Nguyễn Chí Vu (Bộ trưởng Bộ công nghiệp nhẹ Sau khi thắng Mỹ năm 1975, Miền nam hoàn toán giải phóng, tổ quốc Việt Nam đã hoàn toán thống nhất. Cuối năm 1975 hợp nhất 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành một tỉnh. Từ trong đổ nát của chiến tranh, Nghệ Tĩnh phải vượt qua thử thách nặng nề. Trong hoàn cảnh ấy Trường PTTH Huỳnh Thúc Kháng cùng với toàn ngành giáo dục tiếp tục phấn đấu vượt lên.Từ năm học 1976-1977 trường được mang tên mới là trường cấp III Vinh I, co 28 lớp với các thầy giáo và Năm 1976 do học sinh tăng lên nên chia làm hai trường cấp III Vinh I và cấp III Vinh II Trong thời gian từ năm 1976 - 1985 trường mang tên là cấp III Vinh I Thầy và trò hăng say xây dựng trường mới, hăng say học tập giảng dạy và đạt được nhiều thành tích tốt đẹp * Những năm 1986 - 2010 Từ năm học 1986 - 1989 trường được xây dựng cơ sở mới ở phường Hưng Bình Từ năm 1989 - 1990 trường chuyển về đặt điểm ngày nay, cơ sở vật chất từng bước được xây dựng khang trang Thầy trò thi đua lập nhiều thành tích: + Liên tục đạt danh hiệu trường TTXS của tình: + Tỷ lệ đậu TN, ĐH cao, có nhiều học sinh giỏi quốc gia; + Năm 1995: Huân chương lao động hạng 3 Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm cô giáo tận tâm với nghề như thầy Phạm Nhượng, Phạm Nguyên Lượng, Nguyễn Xuân Phong, Đặng Văn Luyện, Ngô Quát, Nguyễn Cảnh Đính, Mai Xuân Bình, Đời sống của giáo viên và học sinh còn gặp nhiều khó khăn, vất vả nhưng thầy và trò vẫn hăng say xây dựng trường mới, hăng say học tập giảng dạy và đạt nhiều thành tích tốt đẹp. Tỷ lệ đậu tốt nghiệp hàng năm từ 92% - 100%. Tỷ lệ đỗ Đại học, Cao đẳng từ 48% - 62%. Học sinh giỏi tỉnh hằng năm từ 12 - 56 em. Trường liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến, nhiều năm đạt tiên tiến xuất sắc của tỉnh. Đặc biệt trường luôn là đơn vị dẫn đầu về chất lượng dạy và học thể hiện ở kết quả thi đại học và học sinh giỏi hằng năm. Tiếp nối thời kỳ trước từ năm học 1985 - 1986 thầy và trò tiếp tục dạy và học ở cơ sở cũ tại phường Hưng Dũng. Từ năm 1986 - 1989 cơ sở mới được xây dựng tại phường Hưng Bình. Từ năm 1989 - 1990 trường chuyển về địa điểm ngày nay và đi vào ổn định. Thầy và trò tập trung vào nhiệm vụ giảng dạy học tập. Cơ sở vật chất từng bước được xây dựng khang trang trong khuôn viên mới với diện tích 16.000 m2 với 42 trường học, các thực hành Lý, Hoá, Sinh, Tin, nhà đa chức năng phục vụ cho các hoạt động tập thể, - GV hỏi: Từ năm 1986 đến nay thầy và trò trường THPT Huỳnh Thúc Kháng đã đạt được những thành tích tiêu biểu nào? + Năm 2000 được tặng huân chương độc lập hạng 3 + Năm học 2007 - 2008 trường được công nhận là trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 - 2010; + Năm 2010 trong dịp kỷ niệm 90 năm thành lập trường, trường đã vinh dự đón nhận danh hiệu anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới do chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết phong tặng Củng cố: Qua những buổi học Truyền thống các em nắm được + Tiểu sử cụ Huỳnh Thúc Khàng; + Các giai đoạn của nhà trường; + Các thành tích đạt được. Bài tập thu hoạch Câu 1: Mục đích của việc học tập phòng truyền thống? Câu 2: Suy nghĩ của em khi được tìm hiểu phòng truyền thống và lịch sử trường? Câu 3: Các giai đoạn phát triển của nhà trường và thành tích đạt được? Câu 4: Em hãy kể tên một số giáo viên và học sinh tiêu biểu của trường qua các thời kì? Câu 5: Là học sinh của trường, em sẽ làm gì để viết tiếp những trang sử vàng của THPT Huỳnh Thúc Kháng? Phụ lục 5 MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP TẠI TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG Tiết mục Sử thi nghệ thuật: Cuộc đời và sự nghiệp nhà chí sỹ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng và quá trình phát triển của nhà trường Chương trình chào đón K98: RADIO 196X Chương trình chào đón K99: EPOCH Tuổi trẻ trường THPT Huỳnh Tháng Kháng tham gia “Lễ thắp nến tri ân” Tham quan học tập tại di tích lịch sử Truông Bồn Hoạt cảnh “Cô dân quân làng Đỏ” Phụ lục 6 MỘT SỐ BÀI THU HOẠCH CỦA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_long_yeu_que_huong_dat_nuoc_c.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa.pdf