Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho học sinh khi dạy học phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX - Lớp 10 THPT
Dân tộc Việt Nam ta có lịch sử lâu đời. Từ xưa, nhân dân ta đã coi trọng việc lấy lịch sử để giáo dục thế hệ trẻ. Trong các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, ca dao...có nhiều yếu tố của tri thức lịch sử, phản ánh nhiều sự kiện lớn của công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Lịch sử của dòng họ, của địa phương cũng đã ra đời từ khá lâu, có tác dụng không nhỏ vào việc giáo dục truyền thống, lòng tự hào và trách nhiệm đối với quê hương, Tổ quốc, trong đó có việc giáo dục truyền thống đoàn kết.
“Dựng nước đi đôi với giữ nước” là một trong những đặc trưng quan trọng trong lịch sử nước ta, vì vậy đoàn kết dân tộc là một yêu cầu tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, đó cũng là nguồn sức mạnh vô biên đưa dân tộc Việt vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, làm nên những chiến công vang dội năm châu, bốn biển. Tầm quan trọng của sức mạnh đoàn kết dân tộc đã được văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) từng khẳng định: Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho học sinh khi dạy học phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX - Lớp 10 THPT

riêng được phát triển lên. Ví dụ, khi dạy học bài 23 “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII”, giáo viên sử dụng lược đồ trận Ngọc Hồi - Đống Đa để trình bày diễn biến của trận đánh. Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ và giới thiệu khái quát, sau đó giáo viên giới thiệu các kí hiệu trên lược đồ . Học sinh tiếp tục quan sát, giáo viên tiến hành lược thuật trên bản đồ, hoặc cũng có thể yêu cầu các em đọc sách giáo khoa nêu lại diễn biến chính trước khi giáo viên trình bày trên bản đồ. Trong khi tường thuật và miêu tả diễn biến của trận đánh, giáo viên cần lưu ý hướng dẫn học sinh phân tích tính chất quyết liệt của cuộc chiến, khắc sâu hình ảnh chiến đấu ngoan cường của binh lính và nhân dân chống lại kẻ thù bằng những vũ khí thô sơ nhất. Cụ thể ta có thể khắc sâu như sau: khi hạ xong đồn Hạ Hồi, đại quân Tây Sơn tiến gấp về đồn Ngọc Hồi. Mờ sáng ngày mùng 5 tết Kỉ Dậu, trận chiến bắt đầu. Lúc trời còn chưa sáng đội tượng binh của Quang Trung bất thần tiến nhanh về phía Ngọc Hồi. Mũi tên của địch bắn ra như mưa. Đoàn voi chiến liền chia làm hai cánh tả hữu mở đường cho đội xung kích tiến lên. 600 chiến sĩ cảm tử chia làm 20 toán, cứ 10 người, dao dắt bên hông, cùng nhau khiêng một tấm mộc lớn, bên ngoài quấn rơm ướt xông lên phía trước, sau có 20 chiến sĩ đi theo, kết thành những bức tường di động. Đại bác, cung nỏ, hỏa mù của địch bắn ra tới tấp, “khói tỏa mù trời” nhưng không ngăn cản bước tiến của đoàn quân cảm tử. Áp sát chân lũy, các chiến sĩ xung kích bỏ tấm mộc xuống, rút dao và các loại vũ khí khác xông vào chiến đấu dữ dội. Cùng lúc đó, theo sự chỉ huy của Quang Trung, hàng vạn quân ào ạt xông lên tiếp chiếnTrước sức tấn công như vũ bão của quân ta, địch chống không nổi, quay đầu chạy toán loạn Bị tấn công bất ngờ, quân giặc hoảng loạn, chống đỡ yếu ớt. Hàng ngàn quân Thanh tử trận. Nhân dân chín xã ngoại thành sôi nổi dùng rơm rạ bện thành hình rồng, đốt lên xông vào doanh trại giặc trợ chiến. Kết thúc bài tường thuật, kết hợp sử dụng bản đồ và tranh ảnh, giáo viên tái hiện cho học sinh bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến chống quân Thanh, để các em nắm chắc kiến thức cơ bản, tạo được biểu tượng về sự đoàn kết chiến đấu giữa các binh lính dưới sự lãnh đạo của anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ và giữa quần chúng nhân dân với binh lính. Mặc khác, giáo viên cũng giúp học sinh hiểu được rằng: Với thắng lợi này, khởi nghĩa Tây Sơn đã phát triển lên thành phong trào nông dân rộng lớn, đánh đổ các tập đoàn phong kiến đang thống trị, và đến đây, phong trào Tây Sơn đã trở thành một phong trào dân tộc vĩ đại. Truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc của nhân dân một lần nữa lại sáng bừng lên rực rỡ. Cách sử dụng ngôn ngữ diễn đạt của mình, kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan của giáo viên, học sinh sẽ cảm nhận được giá trị của khối đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc của nước nhà, giáo dục các em niềm tự hào về truyền thống quý báu của cha ông và xác định được trách nhiệm của mình đối với tương lai của đất nước. - Thứ hai, sử dụng niên biểu, bảng so sánh, thống kê kết hợp với phương pháp tổ chức cho học sinh trao đổi thảo luận để tạo biểu tượng về giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho học sinh. Đây là biện pháp sư phạm được sử dụng khá phổ biến trong dạy học lịch sử, có tác dụng kích thích tư duy học sinh phát triển, bao gồm cả tư duy tái tạo và tư duy sáng tạo, góp phần nâng cao chất lượng giờ học và hiệu quả giáo dục. Ví dụ, khi dạy học bài 27 “Qúa trình dựng nước và giữ nước” (phần sơ kết lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX). Giáo viên cần hướng dẫn học sinh lập bảng thống kê các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc từ thời kì Bắc thuộc đến thế kỉ XVIII. Để thực hiện theo phương pháp này, trước tiên giáo viên kẻ một bảng thống kê gồm 3 cột, cột một là tên triều đại và các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa, cột thứ hai là những nội dung chính, cột thứ ba là kết quả, sau đó gọi học sinh phát biểu và giáo viên sửa chữa rồi điền vào bảng thống kê . Trong quá trình hoàn thiện, giáo viên có thể cho học sinh trao đổi, phân tích, bổ sung để các em khái quát hoá sự kiện và hiểu sâu sắc về các biến cố lớn của lịch sử dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Cuối cùng, giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét về những yếu tố tạo nên sự thành công cũng như thất bại của các phong trào kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân ta từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII và chốt lại: Trong giai đoạn này, chúng ta đã giành được thắng lợi hết sức to lớn bởi có sự chỉ huy mưu lược của các nhà cầm quân, các nhà lãnh đạo; thắng lợi đó có được cũng là nhờ ý chí quyết chiến bảo vệ nền độc lập của quân dân Đại Việt; một yếu tố quan trọng không thể thiếu đó là sự đoàn kết trên dưới một lòng của quân và dân ta. Sự đoàn kết của chính quyền nhà nước, của quân và dân ta đã góp phần tạo ra sức mạnh to lớn đánh thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh. Tên triều đại và các cuộc khởi nghĩa Nội dung chính Kết quả Thời Tiền Lê: Kháng chiến chống Tống Năm 981 quân Tống tiến vào nước ta. Trước nguy cơ xân lược, thái hậu Dương Thị đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi dùng họ, tôn Lê Hoàn lên làm vua lãnh đạo cuộc kháng chiến Kháng chiến của nhân dân ta giành thắng lợi. Tướng giặc bị bắt, rút chạy về nước Thời Lý: Kháng chiến chống Tống (1075 - 1077) Năm 1077, 30 vạn quân Tống đánh sang Đại Việt. Nhân dân kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Lý Thường Kiệt Quân dân ta đánh tan quân xâm lược Tống, giành thắng lợi. Thời Trần: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên (1258, 1285, 1287 - 1288). Dưới sự lãnh đạo của các vị vua và tướng giỏi nhà Trần, cùng sự ủng hộ, đoàn kết của nhân dân đã đập tan ba lần vó ngựa xâm lược của quân Mông – Nguyên (trận quyết định trên sông Bạch Đằng) (1287 - 1288). Giặc chịu thất bại nặng nề, rút lui khỏi kinh thành Thời Hồ (1400 - 1407) - Cuộc cải cách nhà Hồ không đạt kết quả như mong muốn, quân Minh ồ ạt tiến sang xâm lược. - Năm 1407,cuộc kháng chiến nhà Hồ thất bại. Nước ta rơi vào ách đô hộ của quân Minh. Khởi nghĩa Lam Sơn (1417 - 1427) - Mùa xuân 1418, Lê Lợi lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn (Thanh Hoá). - Cuối năm 1427, 10 vạn quân cứu viện của giặc bị đánh tan tành ở trận Chi Lăng – Xương Giang. Giặc rơi vào thế cùng quẫy, tháo chạy về nước. Thời Tây Sơn: * Kháng chiến chống Xiêm (1874 - 1875) * Kháng chiến chống quân Thanh (1789) - Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm, 5 vạn quân Xiêm tiến vào nước ta. - Năm 1785, được nhân dân ủng hộ, Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm (trận Rạch Gầm – Xoài Mút) - Vua Lê Chiêu Thống cầu viện vua Thanh, 29 vạn quân Thanh tiến sang nước ta. - Năm 1788, Nguyễn Huệ (Quang Trung) lên ngôi hoàng đế, chỉ huy quân tiến ra Bắc. - Mùng 5 Tết 1789, nghĩa quân thắng lợi ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa. - Tiến vào Thăng long đánh bại quân xâm lược. Cách dùng bảng thống kê kết hợp với phương pháp tổ chức cho học sinh trao đổi thảo luận như trên sẽ hệ thống hoá và khắc sâu kiến thức cho học sinh về các cuộc đấu tranh và thành quả mà cha ông ta đạt được trong công cuộc bảo vệ nền độc lập nước nhà. Công việc này cũng giáo dục cho các em phải biết giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, rèn luyện kỹ năng học tập bộ môn như lập bảng niên biểu, so sánh - Thứ ba, sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại kết hợp với câu hỏi bài tập để giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho học sinh. Ngày nay, việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử không chỉ dừng lại ở sử dụng bản đồ, tranh ảnh, mô hình truyền thống mà còn có các loại phương tiện kĩ thuật hiện đại. Việc sử dụng phương tiện kĩ thuật hiện đại không làm hạ thấp đi vai trò của giáo viên mà còn làm tăng hiệu quả bài học ở các mặt thu nhận thông tin, tư duy, ghi nhớ, từ đó có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, giúp việc giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc đạt hiệu quả cao. Do nhận thức của học sinh bao giờ cũng đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng mà việc sử dụng phương tiện kĩ thuật trong dạy học có tác dụng rất lớn, đảm bảo tính hình ảnh của việc trình bày kiến thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các phương tiện kĩ thuật hiện đại đã được đưa vào quá trình giảng dạy, đó là máy tính kết nối với máy chiếu dạy trên phần mềm Microsoft Office Powerpoint. Việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật trong dạy học lịch sử không phải chỉ để giải trí, minh họa cho bài học mà chủ yếu là bổ sung kiến thức, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn bài học. Trước khi cho học sinh xem phim, giáo viên nêu lên vấn đề để học sinh tập trung sự chú ý vào nội dung phim. Cuối giờ học, giáo viên tổ chức trao đổi, trả lời câu hỏi nêu ra đầu giờ rồi giao cho học sinh về nhà làm bài tập thu hoạch nhỏ. Có thể nói, phương tiện màn ảnh rất quan trọng trong dạy học, nhưng cũng không thể thay thế được vai trò của giáo viên. Chính vai trò chủ đạo trong hướng dẫn của giáo viên và hoạt động chủ động của học sinh kết hợp với phim ảnh có tác dụng nâng cao hiệu quả bài học, góp phần vào giáo dục truyền thống nói chung, truyền thống đoàn kết dân tộc nói riêng. Ngoài phương pháp trình bày miệng và sử dụng đồ dung trực quan, giáo viên có thể sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử nhằm phát triển tư duy độc lập, qua đó nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho học sinh. Giáo viên nên kết hợp phương pháp tổ chức trao đổi thảo luận trong quá trình dạy học lịch sử giúp học sinh nắm chắc kiến thức và nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Đây là phương pháp khó, đòi hỏi giáo viên không chỉ có kiến thức sâu rộng mà phải biết kết hợp các phương pháp dạy học và sử dụng thời gian hợp lí để giúp học sinh nắm chắc nội dung cơ bản của bài và nâng cao hiệu quả giáo dục. Học sinh phát huy tính tích cực trong học tập, không chỉ phát huy kiến thức mới mà phải có khả năng tái hiện kiến thức cũ, biết so sánh, biết nhận định tìm ra điểm giống, khác nhau, điểm kế thừa, phát triển và sáng tạo. Kết quả việc học tập là phát triển khả năng tư duy và kích thích học sinh hứng thú học tập hơn. Tóm lại, trong bài học nội khoá, giáo viên có thể sử dụng các phương pháp, biện pháp sư phạm khác nhau để giúp học sinh nắm vững kiến thức lịch sử, qua đó nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh, trong đó có giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc. Khi sử dụng các phương pháp, giáo viên cần căn cứ vào nội dung bài học để lựa chọn các phương pháp giáo dục phù hợp với nội dung bài học và khả năng đối tượng học sinh mới có thể đem lại hiệu quả thực sự. PHẦN III. KẾT LUẬN Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình đổi mới, vấn đề kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế đang đặt ra cấp thiết. Tìm về cội nguồn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để tồn tại và phát triển, nâng cao giá trị văn hóa của dân tộc lên cao. Bộ môn lịch sử có giá trị trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, phát triển năng lực và rèn luyện phương pháp tư duy cho học sinh. Do đó cần khai thác tối đa, tận dụng triệt để lợi khí giáo dục của môn Lịch sử. Sử học là cái lợi khí rèn đúc tinh thần dân tộc. Nền giáo dục có tính dân tộc nghĩa là trước hết phải có nhiệm vụ rèn đúc trong đầu thanh niên một khái niệm rõ ràng, chân chính đối với nguồn gốc của dân tộc mình, cho họ thấu hiểu được những truyền thống đau khổ - có; oanh liệt - có, của những thế hệ trước giành độc lập và tự do, để cho học có một lòng yêu nước nồng nàn và có một tin tưởng vững chắc đối với dân tộcHơn nữa, để họ thấy những cố gắng và sự hi sinh vĩ đại của dân tộc trong hiện tại và sau nữa để cho họ thấy cái tiền đề phát triển vẻ vang của dân tộc sau này. Khi người thanh niên đã có tinh thần như thế rồi, đã có cơ sở đó rồi, thì lúc ra đời dẫu những khả năng và sở thích của họ có xu thế ngành chuyên môn nào nữa thì học vẫn là người phụng sự dân tộc, chính vì tầm quan trọng của môn lịch sử trong việc hoàn thiện nhân cách con người, nên khai thác nội dung lịch sử để giáo dục truyền thống dân tộc nói chung, giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc nói riêng chính là mục tiêu của sự nghiệp giáo dục đào tạo đối với chiến lược phát triển con người Việt Nam thế kỉ XXI. Thông qua khóa trình dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX ở lớp 10 THPT, giáo viên không chỉ giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, hệ thống, khoa học mà trên cơ sở đó tạo cho các em niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, lòng biết ơn đối với quần chúng nhân dân – những người sáng tạo ra lịch sử. Đặc biệt, giúp các em nhận thức một cách sâu sắc khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Từ đó, học sinh có ý thức trách nhiệm của mình và biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống hiện tại một cách hữu ích, mà trước hết là những tình cảm tốt đẹp đối với bạn bè, gia đình, cùng những người xung quanh. Đó chính là chức năng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của bộ môn. Để làm được điều đó, trong quá trình dạy học giáo viên phải chuẩn bị cho mình những phương pháp dạy học tốt để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung, giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc nói riêng. Trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm, tác giả đã cố gắng trình bày toàn bộ quá trình nghiên cứu của mình trong việc vận dụng các biện pháp sư phạm cơ bản để giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho học sinh trong dạy học lịch sử. Đây mới chỉ là những suy nghĩ bước đầu với một vấn đề mới, sự hạn chế về thời gian và khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm nên vẫn còn nhiều thiếu sót. Tác giả hi vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu bổ sung, và được sự góp ý của các thầy cô giáo để để chất lượng đề tài được nâng cao và ứng dụng vào thực tiễn dạy học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Côi (cb), (2009), “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử lớp 11 THPT”, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, (2001), “ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Phan Ngọc Liên (cb), Trần Văn Trị, (1992), “ Phương pháp dạy học lịch sử”, NXB Giáo dục, Hà Nội. 4. Phan Ngọc Liên (cb), (1994), “ Một số vấn đề giáo dục lịch sử Việt Nam”, NXB Giáo dục, Hà Nội. 5. Phan Ngọc Liên (cb), Trần Văn Trị, “ Phương pháp dạy học lịch sử”, NXB Giáo dục, Hà Nội. 6. Phan Ngọc Liên (cb) và các tác giả khác, “ Lịch sử 10”, NXB Giáo dục, Hà Nội. 7. Phan Ngọc Liên (cb), Đặng Văn Hồ, Trần Viết Thụ, Nguyễn Xuân Trường, (2006), “ Kiến thức lịch sử 10”, NXB Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh. 8. Phan Ngọc Liên (cb), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, (2007), “ Phương pháp dạy học lịch sử”, tập II, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh, (2000), “ Hồ Chí Minh toàn tập”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10. Trương Hữu Quýnh (cb), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, (2003), “ Đại cương lịch sử Việt Nam” Tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội. 11. Trịnh Tiến Thuận, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Nam Phong, Lê Hiến Chương, Phan Ngọc Huyền, (2007), “ Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử 10”, NXB Hà Nội. 12. Phạm Viết Vượng, (2000), “ Giáo dục học”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_truyen_thong_doan_ket_dan_toc.doc
bao_cao.doc