Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 11, 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh người con ưu tú của dân tộc, là danh nhân văn hóa của thế giới. Người là kết tinh của tư tưởng “Đại nhân, Đại nghĩa”. Người để lại cho dân tộc ta một tư tưởng cách mạng, một nhân cách đạo đức cao cả. Người đã làm “rạng rỡ non sông ta, đất nước ta”. Suốt cuộc đời hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc học tập, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, lối sống và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là việc làm hết sức cần thiết. Bởi vì tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng của xã hội, là động lực vượt qua khó khăn, thử thách để phát triển kinh tế đất nước, hoàn thiện nhân cách của mỗi người.

Nhưng hiện nay vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường đang đứng trước một thách thức không nhỏ. Ảnh hưởng tác động của phim, ảnh, lối sống hưởng thụ, các trò chơi điện tử mang nặng lối sống bạo lực….. bên cạnh đó một số phụ huynh lo công việc, ít có thời gian quan tâm đến con cái chỉ phó mặc cho nhà trường. Một khía cạnh khác là suy nghĩ của một số phụ huynh và học sinh chỉ quan tâm đến các môn học tự nhiên, coi môn lịch sử là “môn phụ”. Bộ môn lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục học sinh lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lòng biết ơn ông cha ta đổ bao mồ hôi xương máu mới có được cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay, giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội…

doc 13 trang SKKN Lịch Sử 12/10/2025 90
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 11, 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 11, 12

Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 11, 12
à đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité tháng 7/1920, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong bối cảnh bấy giờ, có nhiều trí thức Việt Nam sống tại Pháp, nhưng Người đã thể hiện tính vượt trội của tư tưởng khi nhận ra được chân lý lớn nhất của thời đại. Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc.
 Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc ngày càng có hệ thống và hoàn thiện khi Người tham gia Đảng Cộng sản Pháp, học tập ở Đại học phương Đông, sống trong không khí sục sôi ở trung tâm phong trào cộng sản ở Nga, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Nhận thức của Người về sức mạnh của nhân dân lao động thế giới, về mối quan hệ giữa các dân tộc bị áp bức, giữa cách mạng ở các nước thuộc địa và các nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân, về chính quyền cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng ngày càng sâu sắc và có những luận điểm bổ sung, phát triển, sáng tạo. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tháng 12/1920 là một mốc lịch sử quan trọng trong hành trình đi tìm đường cứu nước của Người, đánh dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người - từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một chiến sĩ cộng sản.
 Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam: truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, xây dựng tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển lực lượng cách mạng Việc Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Người dự thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất, chứng tỏ đến 1930, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam đã được hình thành cơ bản. Sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Một trang mới mở ra trong cuộc đời cách mạng của Người và cũng là bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.
 Bài học thứ tư: Giáo dục tư tưởng: Chăm lo, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng đời sau.
 Khi dạy Bài 13 - Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt nam từ 1925 đến năm 1930 lớp 12, phần sự ra đời và hoạt động của Hội Việt nam cách mạng thanh niên ta giáo dục tư tưởng: chăm lo, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng đời sau.
Thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc giáo viên nêu rõ. Để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp Người rất chăm lo bồi dưỡng tinh thần cách mạng cho thế hệ thanh niên. Người tập hợp thanh niên yêu nước trong tổ chức “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác -Lênin cho thanh niên. Người mở lớp huấn luyện, đào tạo cho thanh niên yêu nước từ trong nước sang. Một số thanh niên xuất sắc được chọn đi học trường Đại học Phương Đông ở Liên xô, một số học trường quân sự ở Trung Quốc và Liên xô, còn lại về nước hoạt động. Những người này trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng sau này như đồng chí Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong.Còn lại cử về nước hoạt động đi vào phong trào công nhân tổ chức, giác ngộ quần chúng đấu tranh gây dựng cơ sở cách mạng. Để chuẩn bị ra đời một Đảng của giai cấp công nhân năm 1925 Người thành lập tổ chức "Hội Việt Nam cách mạng thanh niên" Đây là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng suôt cuộc đời hoạt động của Bác lúc nào Người cũng chăm lo bồi dường đội ngũ kế cận, chăm lo giáo dục tưởng cách mạng cho thế hệ thanh niên bởi vì tổ chức Đoàn là cánh tay đắc lực của Đảng, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là tiền thân của sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Suốt trong cuộc đời hoạt động của Người lúc nào Người cũng chăm lo bồi dưỡng tinh thần cách mạng cho các thế hệ sau. Năm 1925 trong bài “Gửi thanh niên An Nam” Người nhắc nhở “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của người không sớm hồi sinh”.
 Ngày nay trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thanh niên là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp này. Vì thanh niên là lực lượng có sức khỏe, có hoài bão, có nghị lực, có văn hóa.. Từ việc giáo dục tư tưởng này để cho học sinh nhận thức được vài trò của thế hệ thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ đó ra sức học tập, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Khi dạy Bài 17 lớp 12 - Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945-1946) ta giáo dục tư tưởng: chăm lo, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng đời sau của Người.
 Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, tháng 9 - 1945, Bác đã viết thư gửi học sinh, sinh viên toàn quốc. Trong thư có đoạn viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
 Bác khuyên nhủ thanh thiếu niên phải ra sức học tập, rèn luyện để tự mình có đủ sức mạnh để tham gia kháng chiến, kiến quốc, gìn giữ hòa bình, xây dựng đất nước mạnh giầu, phồn vinh. Bác rất tin tưởng thanh niên, tin vào ý chí, nghị lực và quyết tâm đánh thắng “giặc ngoại xâm”, “giặc đói”, “giặc dốt”; làm rạng danh dân tộc, giống nòi Việt Nam. Với tuổi trẻ, óc sáng tạo và sự dồi dào sức lực, thanh niên có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành trách nhiệm vẻ vang mà cả dân tộc giao phó. Bác viết: “Không có việc gì khó; chỉ sợ lòng không bền; đào núi và lấp biển; quyết chí ắt làm nên”.Bác không chỉ chăm lo bồi dưỡng tư tưởng cách mạng cho thế hệ thanh niên mà Người còn quan tâm đến các cháu thiếu niên nhi đồng.  Để làm tốt công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Bác đề cao vai trò, trách nhiệm, sự nêu gương, mẫu mực, mẫn cán của đội ngũ cán bộ và các thế hệ cha, anh, những người đi trước. Theo Bác, thế hệ đi sau phải tiến bộ hơn thế hệ đi trước mới tốt, nếu thế hệ đi sau không bằng thế hệ đi trước, như thế là thụt lùi, là đáng phê bình. Và đó cũng là khuyết điểm của người lớn tuổi, thế hệ cha anh. Vì vậy, dù bận trăm công ngàn việc, Bác đều dành thời gian quan tâm đến các cơ sở giáo dục và đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác giáo dục đào tạo; coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng, chiếm vị trí hàng đầu của việc phát huy nhân tố con người. Theo Bác, chống “giặc dốt”, “giặc đói” cũng cấp bách, hệ trọng như chống giặc ngoại xâm. Trong suy nghĩ và việc làm của Bác, vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đều là những công việc cần thiết, nên làm vì nó phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; vì “cả hai việc đó đều cần phải có nhân tài”.
 Trong bản “Di chúc”, Người viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc làm rất quan trọng và cần thiết”, đoàn viên, thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn có chí tiến thủ, Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Sớm nhận rõ vị trí, vai trò của thế hệ trẻ đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Bác đã coi việc thức tỉnh thanh niên, kêu gọi họ đứng lên cùng đồng bào cả nước đánh đuổi quân xâm lược bằng việc đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Bởi vì, theo Bác, thế hệ trẻ không những là lớp người kế tục, tiếp bước các thế hệ già, mà còn là tương lai, tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Với ưu thế là lớp người trẻ tuổi, có sức khỏe, nhiệt tình, hăng hái, ham hiểu biết, ham tiếp thu cái mới, giầu sức sáng tạo; thế hệ trẻ có đủ các điều kiện để “dời non, lấp bể”, làm nên sự nghiệp cách mạng. Bác đã ví thanh thiếu niên là “mùa xuân của tuổi trẻ”, “mùa xuân của xã hội”, “là tương lai, tiền đồ của nước nhà”. Vì thế, sự phát triển lâu dài của đất nước rất cần có sự giúp đỡ của thanh niên; phụ thuộc một phần lớn vào thanh niên và công tác thanh niên của Đảng, Nhà nước ta. Không ít lần, Bác khẳng định: Thanh thiếu niên là người làm chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh thiếu niên và sự tiến bộ của họ. Cũng vì thế, Bác luôn căn dặn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và khuyên bảo thanh thiếu niên: Các cháu muốn thực sự làm chủ tương lai nước nhà thì ngay hiện tại “phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cho cái tương lai đó”.
 Giáo viên liên hệ thực tế để giáo dục học sinh. Ngày nay đất nước hòa bình.Cả nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì mỗi học sinh phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức. Để sau này góp phần xây dựng đất nước.
 Bài học thứ năm: Giáo dục cho học sinh tinh thần vì dân vì nước của Bác. 
 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng lấy "dân làm gốc" ra đời trong truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc và học thuyết Mác- Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn - Chủ tich Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
 Quan điểm cơ bản trong tư tưởng của Người về vai trò quần chúng nhân dân là: "Dân là gốc của một nước, nước lấy dân làm gốc". Đây chính là chân lý mà Người đúc kết được sau bao năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài và tổng kết từ thực tiễn cách mạng trong nước. Bác khẳng định:“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân” . “Trong cuộc kháng chiến kiến quốc lực lượng chính là ở dân”. “Cách làm là dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân” . "Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân" .
 Tư tưởng này xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Bác, thể hiện qua nhiều bài dạy. Suốt cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước đến khi vĩnh biệt chúng ta Người chỉ có một ham muốn “Ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” Bác đã từng căn dặn các vị lãnh đạo “Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội đem lại cơm no, áo ấm cho dân, nếu độc lập, dân còn nghèo đói thì độc lập không có nghĩa lí gì”.
 Khi dạy Bài 16 - Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 – 1945 ). Nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời lớp12. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp bị đánh bại trên toàn Đông Dương, quân Đồng Minh chuẩn bị kéo vào Đông Dương. Thời cơ tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Trong lúc Bác đang bị bệnh rất nặng , Bác cầm tay các đồng chí cách mạng căn dặn “Thời cơ đã đến dù đốt cháy dãy Trường Sơn cũng cố giành cho được độc lập”. Dù hoàn cảnh nào Bác vẫn nghĩ tới dân tộc. 
 Khi dạy Bài 17 lớp 12 - Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945-1946) phần tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám. Ngay sau khi Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi từ chiến khu Bác về Hà Nội, Người rất đau lòng khi thấy nhân ta trải qua trận đói khủng khiếp hậu quả chính sách cai trị tàn bạo của thực dân, phong kiến. Vì vậy ngay sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Người đã ra sắc lệnh diệt “giặc đói” Bản thân Bác cũng nhịn ăn để dành gạo cứu đói.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân dân, ngay cả khi cách mạng đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” Người vẫn một lòng tin tưởng vào nhân dân. Người cho rằng “có dân sẽ có tất cả”, “có dân việc gì cũng làm được” và Người thường xuyên động viên nhắc nhở:“chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ
2.4. Hiệu quả của đề tài
Qua nhiều năm vận dụng phương pháp dạy học lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giảng dạy lịch sử ở các khối lớp 11 và 12, tôi đã thu được một số kết quả rất khả quan: học sinh tiếp thu kiến thức bài giảng dễ dàng hơn, hiểu được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục được tính rời rạc tản mạn trong kiến thức, góp phần quan trọng hoàn thiện nhân cách học sinh. 
Kết quả giảng dạy bộ môn của tôi trong nhiều năm liền luôn đạt ở mức cao: 75% khá giỏi, 25% trung bình, Không có học sinh yếu kém, học sinh hứng thú học tập môn sử hơn.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
 3.1. Kết luận
 Dạy học là việc làm sáng tạo. Giáo viên được mệnh danh là “kĩ sư tâm hồn, là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa”. Vì vậy để dạy tốt gây hứng thú cho học sinh, góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh qua tiết học lịch sử thì mỗi giáo viên cần phải sử dụng các phương pháp dạy học. Tùy theo nội dung bài học, tùy theo đối tượng học của từng khối, lớp. Đối với việc lồng ghép giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong tiết học lịch sử, thì giáo viên phải biết linh hoạt, phân bố thời gian, kiến thức cho phù hợp với từng bài. Tránh tình trạng giáo viên quá sa đà dẫn đến việc biến tiết học lịch sử thành tiết kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh. Không truyền thụ hết nội dung trong bài học.
 Bản thân tiếp tục vận dụng lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử để tích hợp, củng cố, nâng cao kiến thức, hiểu biết về Hồ Chí Minh nhằm góp phần quan trọng trong lĩnh vực đào tạo thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay mà môn lịch sử là một phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách thế hệ trẻ.
 Tư tưởng của Bác vô cùng rộng lớn, trên nhiều lĩnh vực là “Kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trong công cuộc đổi mới hiện nay. Trên đây là một số giải pháp để lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp11, 12 chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong sự trao đổi, đóng góp của đồng nghiệp để nhiệm vụ dạy- học được tốt hơn.
 3.2. Kiến nghị
 * Đối với Sở giáo dục đào tạo:
 Cung cấp thường xuyên, kịp thời các loại sách tham khảo về nghiệp vụ chuyên môn cho các trường THPT.
 Mở các buổi hội thảo bộ môn có tính chất điển hình, tạo cho giáo viên có điều kiện trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn
 * Đối với nhà trường:
 Tạo điều kiện tổ chức các hoạt động ngoại khoá: ngày hội lịch sử, đố vui lịch sử, cung cấp đầy đủ trang thiết bị của bộ môn
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh hóa ngày 25 tháng 2 năm 2018
CAM KẾT KHÔNG COPY
 Trịnh Thị Hạnh

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_tu_tuong_dao_duc_ho_chi_minh.doc