Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục ý thức, trách nhiệm về chủ quyền biển, đảo thông qua việc lồng ghép kiến thức biển, đảo vào một số bài trong chương trình Lịch sử lớp 10

Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, sự bùng nổ thông tin từ đài, báo, Intenet....sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật và xu thế toàn cầu hoá đang đặt ra cho đất nước những thách thức và vận hội mới hội nhập và phát triển. Thời đại ngày nay cũng đặt ra cho giáo dục nhiệm vụ đào tạo nên những con người phát triển toàn diện nhằm đáp ứng được yêu cầu thực tiễn xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Môn lịch sử với chức năng nhiệm vụ của mình đã góp phần lớn vào việc hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, phát huy truyền thống dân tộc, bồi dưỡng năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội.

Hiện nay, vấn đề chủ quyền trên Biển Đông đang là vấn đề cực kì nóng được cả nước đặc biệt quan tâm. Trong ngành Giáo dục, yêu cầu giáo dục về chủ quyền biển, đảo cho thế hệ trẻ cũng được coi là vấn đề quan trọng trong những năm học gần đây. Bởi vì, thế hệ trẻ là những chủ nhân tương lai của đất nước, các em cần phải hiểu rõ lịch sử dân tộc, cũng như chủ quyền biển đảo của quốc gia, để rồi từ đó, khơi dậy tình yêu nước, niềm tự hào dân tộc và tinh thần sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, từ các em, tinh thần đó sẽ tiếp tục được lan tỏa rộng rãi đến từng gia đình và nhân lên trong toàn thể cộng đồng.

doc 16 trang SKKN Lịch Sử 31/07/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục ý thức, trách nhiệm về chủ quyền biển, đảo thông qua việc lồng ghép kiến thức biển, đảo vào một số bài trong chương trình Lịch sử lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục ý thức, trách nhiệm về chủ quyền biển, đảo thông qua việc lồng ghép kiến thức biển, đảo vào một số bài trong chương trình Lịch sử lớp 10

Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục ý thức, trách nhiệm về chủ quyền biển, đảo thông qua việc lồng ghép kiến thức biển, đảo vào một số bài trong chương trình Lịch sử lớp 10
oại thương dưới các triều đại phong kiến từ rất sớm.
 Bài 22: Tình hình kinh tế ở các thế kỷ XVI – XVIII, Mục 3 Các Chúa Nguyễn với cái nhìn cởi mở về biển, đã thực thi chính sách khuyến thương mạnh mẽ, tích cực mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia trên thế giới, tạo thuận lợi cho thương mại đàng trong phát triển.
3. Các biện pháp lồng ghép nội dung giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh lớp 10 trong một số tiết dạy học lịch sử - Phần lịch sử Việt Nam. 
3. 1) Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong giờ nội khoá.
3.1.1) Sử dụng tài liệu về chủ quyền biển, đảo đẻ lồng ghép và Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
3.1.1.1) Sử dung tài liệu lịch sử:
 Sử dụng tài liệu lịch sử để cụ thể hoá các hiện tượng, sự kiện lịch sử đạng học nhằm tạo biểu tượng cụ thể, rõ ràng, sinh động, nhằm gây hứng thú cho việc học tập của học sinh. Chẳng hạn khi lồng ghép nội dung về quá trình xác lập chủ quyền biển, đảo Tổ quốc một cách hoà bình và liên tục qua các triều đại phong kiến Việt Nam
 Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến ( từ thế kỷ X đến thế kỷ XV ) khi giảng mục II giáo viên nhấn mạnh các triều đại phong kiến Việt Nam luôn ý thức sâu sắc về chủ quyền của đất nước, đồng thời sử dụng tư liệu lịch sử khắc sâu thời Trần, Hồ, Lê sơ đều chú trọng phát triển quân đội mạnh và tăng cường cả về số lượng và chất lượng ( Quân cốt tinh nhuệ không cốt đông ) và được trang bị các loại vũ khí trong đó có các chiến thuyền.
 Sử dụng tài liệu lịch sử làm cơ sở chứng minh cho một luận điểm khoa học để hiểu đúng sự kiện lịch sử. (3) Trên cơ sở những tài liệu lịch sử có chọn lọc được giáo viên cung cấp cho học viên về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc để học sinh tham khảo. 
 Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỷ XVI – XVIII ( mục 4 ) 
 Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX sẽ giúp cho các học sinh không chỉ hiểu sâu về kiến thức cơ bản của bài mà còn cung cấp cho các em có được những bằng chứng xác thực về việc xác lập chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ rất sớm và thực thi một cách liên tục, hoà bình qua các triều đại phong kiến Việt Nam, nhất là đối với hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa.
 Khi lồng ghép và giáo dục cho học sinh ý thức về những giá trị, tiềm năng kinh tế - xã hội của biển, đảo đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Giáo viên sử dụng tư liệu lịch sử nhằm cụ thể hoá các sự kiện lịch sử về quá trình khai thác biển và những tiềm năng kinh tế mà biển đem lại cho con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. 
 Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỷ X – XV, Mục 3: Mở rộng thương nghiệp: Giáo viên khai thác nội dụng hoạt động ngoại thương dưới các triều đại phong kiến từ rất sớm để giáo dục cho học sinh hiểu rằng từ thời Lý, Trần đã nhận thấy vai trò của biển, đảo trong phát triển kinh tế quốc gia Đại Việt. 
 Bài 22: Tình hình kinh tế ở các thế kỷ XVI – XVIII – Thời Chúa Nguyễn không chỉ xác lập chủ quyền lãnh hải mà còn thực thi chủ quyền với việc tổ chức khai thác ở hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa.
3.1.1.2) Sử dụng tài liệu văn học: 
 Tài liệu văn học có vai trò to lớn trong dạy học lịch sử, đó là những hình tượng cụ thể có tác động đến tư tưởng, tình cảm của người đọc, người nghe ...Vì vậy khi lồng ghép nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo giáo viên sử dụng tài liệu văn học sẽ góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn nâng cao hứng thú học tập cho học viên. Chẳng hạn Khi dạy về nội dung ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia nói chung, biển, đảo Tổ quốc nói riêng được hình thành từ rất sớm. Giáo viên có thể sử dụng tư liệu văn học dân gian như: Lạc long Quân và Âu Cơ; Mai An Tiêm; Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, (4) bài thơ Đất nước nhìn từ biển (5)  để minh họa và khắc sâu trong tâm trí học sinh.
3.1.2) Sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học để giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của tổ quốc.
 Trong dạy học lịch sử phương pháp trực quan, góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hoá lịch sử. Việc lồng ghép nội dung giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo đòi hỏi giáo viên phát biết lựa chọn và sử dụng các đồ dùng trực quan vào các bài giảng và nội dung cụ thể.
 Sử dụng đồ dùng trực quan hiện vật để tạo biểu tượng lịch sử: Đây là loại tài liệu rất có giá trị và có ý nghĩa to lớn. 
 Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước ta. Để lồng ghép nội dung giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, giáo viên khai thác hình khắc trên trống đồng Đông Sơn để khẳng định từ lâu dân tộc ta đã gắn bó với sông nước lấy thuyền làm phương tiện làm ăn sinh sống, hay những quan tài hình thuyền trong các ngôi mộ cổ ...
 Sử dụng tranh ảnh lịch sử, bản đồ lịch sử, lược đồ lịch sử góp phần giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Chẳng hạn khi giáo dục cho học viên về quá trình xác lập chủ quyền biển, đảo Tổ quốc một cách liên tục và hoà bình qua các triều đại phong kiến 
 Bài 25: Tình hình chính trị kinh tế văn hoá trưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, giáo viên sử dụng tài liệu lịch sử làm tư liệu tham khảo kết hợp minh hoạ bằng bản đồ cổ làm bằng chứng chứng minh về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. (6) Sử dụng những bức ảnh lịch sử có giá trị kết hợp với lời giảng truyền cảm, giàu hình ảnh khi nói về nhiệm vụ khó khăn của những người lính Đội Hoàng Sa xưa và những người lính Trường Sa ngày nay đang canh giữ biển trời để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Ngoài ra giáo viên cũng có thể khai thác những chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta gắn liền với sông, biển thông qua sử dụng đồ dùng trực quan như lược đồ: chiến thắng Bạch Đằng ( năm 938) và ( năm 1288 ) Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút ( 1785 ) (7) kết hợp với lời nói giàu hình ảnh để miêu tả, tường thuật những trận thuỷ chiến vẻ vang của nhân dân ta.
3.2) Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh thông qua các hoạt động ngoại khoá.
 Xuất phát từ mục tiêu giáo dục nói chung, của bộ môn lịch sử nói riêng, dạy học lịch sử ở trường phổ thông không chỉ tiến hành trong các giờ học nội khoá mà còn dạy học tại di tích, tại bảo tàng, tại thực địa ...diễn ra ngoài nhà trường. Nhiệm vụ của ngoại khoá mang tính tổng hợp, làm sâu sắc và phong phú kiến thức của học sinh về các mặt khác nhau của cuộc sống xã hội, góp phần bồi dưỡng, làm sâu sắc, phong phú, toàn diện tri thức lịch sử mà học sinh thu nhận được trên lớp, việc thực hiện các hoạt động ngoại khoá phải phù hợp với điều kiện, khả năng của học sinh và giáo viên và phù hợp với điều kiện của nhà trường. Từ thực tiễn của vấn đề trong 2 năm học 2015 – 2016 và 2016 - 2017 tôi đã đề xuất với Ban giám đốc trung tâm phối hợp với Đoàn thanh niên của Trung tâm tổ chức ngoại khoá: Học sinh Trung tâm GDTX Thọ Xuân với chủ quyền biển, đảo quê hương – bằng những lời ca, tiếng hát về biển đảo kết hợp với giao lưu với những nhân chứng lịch sử đã để lại cho học sinh nhiều cảm xúc về chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Cùng với đó trong dịp kỷ niệm 85, 86 năm ngày thành lập Đoàn thành niên cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp với Đoàn trường tổ chức cuộc thi lịch sử với chủ đề “ Biển, đảo trong tim tôi” đã được đông đảo các học sinh trong trung tâm tham gia và có những bài viết giàu cảm xúc, tình cảm cũng như hiểu biết về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
4. Một số yêu cầu khi lồng ghép nội dung giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong chương trinh lịch sử lớp 10 – Phần lịch sử Việt Nam.
 Việc lồng ghép giáo dục về ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong chương trình lịch sử lớp 10 – phần lịch sử Việt Nam nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ nói chung và của học sinh nói riêng về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, tuy nhiên khi lồng ghép chúng ta cần chú ý một số nguyên tắc sau:
4.1) Đảm bảo tính khoa học, chính xác và tính tư tưởng.
 Dù tiến hành giáo dục về ý thức chủ quyền biển, đảo cho học sinh theo hình thức và bằng phương pháp gì thì một yêu cầu quan trọng cần thiết là phải đảm bảo tính khoa học, tính chính xác trọng việc lựa chọn những nội dung lồng ghép để giáo dục. Tính khoa học được thể hiện qua việc lựa chọn những kiến thức cơ bản nhất, chính xác nhất để hình thành những kiến thức lịch sử cho học sinh, từ đó giáo dục cho các em về thế giới quan khoa học, đúng đắn, xây dựng cho các em niềm tin, ý thức trách nhiệm đối với quá khứ, hiện tai, và tương lai, nhất là đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Tính tư tưởng thống nhất với tính khoa học, trong giảng dạy lịch sử đòi hỏi giáo viên phải bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, tư tưởng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, từ đó khi cung cấp cho học sinh về những tư liệu lịch sử khoa học, chính xác làm bằng chứng về việc xác lập về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc qua các giai đoạn lịch sử. Từ đó hình thành ở thế hệ trẻ ý thức, trách nhiệm, bảo vệ những thành quả mà cha ông đã gây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung và biển, đảo thiêng liêng nói riêng.
4.2) Đảm bảo tính cụ thể, hình ảnh, giàu biểu tượng lịch sử và đưa vào bài lúc phù hợp nhất.
 Trong dạy học lịch sử, việc đảm bảo tính cụ thể, giàu hình ảnh, giàu biểu tượng lịch sử có ý nghĩa quan trọng. Thông qua lời giảng sinh động của giáo viên với ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm, giàu hình ảnh sẽ dẫn dắt học sinh trở về với bức tranh quá khứ của lịch sử, để tạo biểu tượng lịch sử, cụ thể hoá các sự kiện từ đó khắc sâu hơn kiến thức cơ bản trong dạy học lịch sử nói chung cũng như trong giáo dục về ý thức chủ quyền biển đảo nói riêng. Việc lồng ghép không được khiên cưỡng mà phải phù hợp với nội dung bài học làm nổi bật trọng tâm bài học từ đó giáo dục cho các em ý thức trách nhiệm đối với chủ quyền biển, đảo của quê hương.
4.3) Tuyệt đối tránh ôm đồm, sa đà và phải phát huy được tính tích cực của học sinh.
 Việc lồng ghép nội dung giáo dục biển, đảo vào dạy học lịch sử chính khoá phải chọn những sự kiện lịch sử điển hình vừa làm nổi bật kiến thức trọng tâm bài học lịch sử đồng thời khắc sâu ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với biển, đảo quê hương. Khi lồng ghép tránh ôm đồm kiến thức, sa đà, khiên cưỡng ngoài ra cần phải phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Các phương pháp dạy học cần phải linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với nội dung bài học nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình học tập. (8)
5) Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục.
 Sau một thời gian nghiên cứu và thực nghiệm lồng ghép nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh lớp 10 – phần lịch sử Việt Nam cũng như tổ chức các hoạt động ngoại khoá đã mang lại những kết quả khả quan:
5.1) Đối với việc dạy của Thầy:
 Từ việc thiết kế bài giảng đến các khâu lên lớp một cách linh hoạt các phương pháp dạy học, bài giảng của thầy trở nên sinh động, gắn liền với thực tiễn từ đó gây được hứng thú học tập cho các em, phát huy được tính tích cực chủ động của các em trong việc lĩnh hội kiến thức.
5.2) Đối với việc học của Trò: 
 C¸c em høng thó víi giê häc, kÝch thÝch ®­îc sù tù gi¸c, t­ duy ®éc lËp trong viÖc s­u tÇm c¸c t­ liÖu liªn quan cho bµi häc, c¸c em tiÕp thu bµi nhanh h¬n, nhí l©u, ®ång thêi t¹o ra mét kh«ng khÝ häc tËp s«i næi kh«ng nhµm ch¸n.
5.3) Đối với chất lượng giáo dục:
 a. Mức độ quan tâm, sự hiểu biết và nhu cầu tìm hiểu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong học sinh:
 Kết quả có sự khác nhau giữa trước khi lồng ghép và sau khi lồng ghép nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo trong 2 năm học liên tục theo bảng số liệu so sánh sau:
Năm học
Tiêu chí so sánh
Khi chưa lồng ghép nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo của tổ quốc.
Khi đã lồng ghép nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo của tổ quốc.
Năm học :2015-2016
Quan tâm đến chủ quyền biển đảo
33 HS
(35,9%)
92 HS
(100%)
Hiểu biết chủ quyền biển, đảo
30 HS
(32,6%)
92 HS
(100%)
Muốn tìm hiểu về chủ quyền biển, đảo
22 HS
(23,9%)
46 HS
(50%)
Các ý kiến khác
2 HS
(2,2%)
2 HS
(2,2%)
Tổng số
92 HS
Năm học :2016-2017
Quan tâm đến chủ quyền biển đảo
20 HS
(38,5%)
52 HS
(100%)
Hiểu biết chủ quyền biển, đảo
18 HS
(34,6%)
52 HS
(100%)
Muốn tìm hiểu về chủ quyền biển, đảo
15 HS
(28,9%)
28 HS
(53,9%)
Các ý kiến khác
1 HS
(1,9%)
1 HS
(1,9%)
Tổng số
52 HS
 b.Kết quả học tập môn lịch sử:
 Kết quả có sự khác nhau giữa các lớp có lồng ghép và các lớp không lồng ghép nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo trong 2 năm học liên tục theo bảng số liệu so sánh dưới đây:
 -Kết quả năm học 2015-2016:
Lớp
Tổng số
Giỏi
Khá
T/bình
Yếu
Kém
10A1
(có lồng ghép)
51HS
5HS
(10%)

20HS
(39%)
25HS
(49%)
1HS
(2%)
0HS
(0%)
10A3
(có lồng ghép)
51HS
6HS
(12%)
21HS
(41%)
22HS
(43%)
2HS
(4%)
0HS
(0%)
10A2
(không lồng ghép)
42HS
2HS
(0,5%)
15HS
(36%)
20HS
(48%)
3HS
(7%)
2HS
(0,5%)
10A4
(không lồng ghép)
51HS
2HS
(0,4%)
15HS
(29%)
25HS
(49%)
6HS
(12%)
3HS
(6%)

-Kết quả năm học 2016-2017:
Lớp
Tổng số
Giỏi
Khá
T/bình
Yếu
Kém
10A1
(có lồng ghép)
51HS
5HS
(10%)

20HS
(39%)
25HS
(49%)
1HS
(2%)
0HS
(0%)
10A2
(không lồng ghép)
51HS
2HS
(0,4%)
15HS
(29%)
25HS
(49%)
6HS
(12%)
3HS
(6%)

Víi kÕt qu¶ trªn ®©y cho thÊy häc sinh ®· tÝch cùc chñ ®éng trong häc tËp vµ chñ ®éng n¾m kiÕn thøc thøc ®Æc biÖt c¸c em ®· thÝch häc vµ ham häc m«n lÞch sö h¬n. Ý thức trách nhiệm đối với quê hương đất nước nói chung với vấn đề chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc nói riêng được nâng cao rõ rệt.
C.KẾT LUẬN
 Từ kết quả nghiên cứu về lí luận cũng như thực tiễn việc lồng ghép nội dung giáo dục về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh lớp 10 thông qua một số bài của môn Lịch sử - phần lịch sử Việt Nam không những gây hứng thú học tập cho các em trong dạy học Lịch sử mà còn nâng cao chất lượng bộ môn. Đặc biệt là ý thức trách nhiệm của các em về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc đã được nâng lên rõ rệt, các em sống có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình, và xã hội.
 Như vậy rõ ràng việc lồng ghép nội dung giáo dục ý thức trách nhiệm về chủ quyền biển, đảo vào một số bài trong chương trình lịch sử lớp 10” ( Phần lịch sử Việt Nam - Chương trình GDTX ) nói riêng có nhiều ưu điểm, có nhiều tác dụng tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử, đồng thời gây hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao được chất lượng bộ môn. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến này để các bạn đồng môn cùng tham khảo.
 Rất mong được sự đóng góp chân tình của các bạn đồng nghiệp gần xa.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
 Thanh Hóa, ngày 2 tháng 06 năm 2017
Tôi cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác
 ( Ký, ghi rõ họ tên )
 Nguyễn Thành Hưng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Phan Ngọc Liên - Phương pháp dạy học lịch sử 
 NXB GD - 1999 
2/ Nguyễn Thị Côi - Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
 NXB ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
3/ Minh Tân - Từ điển tiếng việt 
 NXB THANH HÓA
4/ Phan Ngọc Liên – Từ điển Thuật Ngữ Lịch Sử Phổ Thông
 NXB ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
5/ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
6/Sách giáo khoa lịch sử lớp 10 – Chương trình chuẩn
7/ Nguồn Internet

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_y_thuc_trach_nhiem_ve_chu_quy.doc