Sáng kiến kinh nghiệm Giới thiệu nhân vật lịch sử Việt Nam vào trong bài học lịch sử
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Không mấy học sinh khi được hỏi em thích môn học nào? Em thích nhân vật lịch sử Việt Nam nào? Tiểu sử của nhân vật đó? Đóng góp của họ cho đất nước là gì? Thì các em trả lời được một cách suông sẽ. Bởi theo các em lịch sử là môn học phụ lại nhiều sự kiện, năm tháng khô khan khó học. Ít khi các em chọn lịch sử để thi đại học, các em chỉ cần học thuộc bài thầy, cô cho ghi để có điểm là được vì thế ít học sinh nào yêu thích môn học này. Thực tế có nhiều cuộc thi trên phương tiện thông tin đại chúng thí sinh đã không trả lời được những câu hỏi về nhân vật lịch sử, hay ngay cả trong kì thi TNTHPT cũng có những câu trả lời về lịch sử dân tộc đã gây bức xúc trong xã hội trước đây mà báo, đài đã phản ánh.
Như chúng ta đã biết lịch sử là một môn Khoa học xã hội có tính chất khá quan trọng trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh. Bác Hồ đã nói:
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về môn học, thích học lịch sử người giáo viên có thể giới thiệu trong bài học, hoặc kể những câu chuyện lịch sử về những nhân vật lịch sử Việt Nam qua các thời kì. Việc làm này sẽ tránh được sự nhàm chán, khô khan trong giờ học sử và quan trọng nhất là thông qua bài học giáo dục học sinh lòng yêu quê hương, đất nước lòng tự hào dân tộc, tôn kính và biết ơn những vị anh hùng có công với đất nước.
Đó là lí do tôi chọn đề tài “ Giới thiệu nhân vật lịch sử Việt Nam vào trong bài học lịch sử”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giới thiệu nhân vật lịch sử Việt Nam vào trong bài học lịch sử

m đó, lấy cớ phải chăm lo việc thờ phụng tổ tiên thay anh cả đã mất, ông cáo quan về quê. Từ đó, ông dốc lòng vào công cuộc cứu nước. Mặc dù rất đau xót trước cảnh người Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của ông trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, mà nhiệm vụ cấp bách là phải: - Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế. - Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. - Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa... Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền. Với phương châm đó, Phan Chu Trình cùng Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh phía nam (đến Phan Thiết). Ông lại một mình ra bắc, lên tận căn cứ Phồn Xương (Yên Thế, Bắc Giang) tìm gặp Hoàng Hoa Thám. Năm 1906, nghe tin Phan Bội Châu lại mới lên đường xuất dương cùng Cường Để, ông cũng ra nước ngoài, định sang Nhật Bản tham gia. Nhưng đến nhà Lưu Vĩnh Phúc tại Quảng Đông, ông đã gặp Phan Bội Châu đang ở đấy. Hơn 10 ngày ở Quảng Đông, hai ông cùng nhau bàn bạc việc nước. Sau đó, ông cùng Phan Bội Châu và Cường Để lên đường sang Nhật Bản. Ông tham quan các trường học, khảo cứu tình hình giáo dục, chính trị của Nhật Bản. Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc Phan Bội Châu đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương bạo động và tư tưởng quân chủ muốn dựa vào ngôi vua của Phan Bội Châu. Về nước, sau một thời gian, ông gửi cho Toàn quyền Paul Beau một bức thư dài đề ngày 15-8-1906. Trong thư, Phan Châu Trinh chỉ trích Chính phủ Pháp không lo mở mang khai thác hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ hơn. Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị. Trong bức thư ông tỏ ra quá tin vào truyền thống cũ của cách mạng Pháp và lòng tốt của thực dân Pháp. Có đoạn có những lời lẽ có phần nghiệt ngã, cứng nhắc đối với chủ trương bạo động và phong trào đấu tranh vũ trang của dân tộc. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn phê phán đánh giá trình độ của nhân dân ta quá kém, để từ đó dẫn đến mức không tin cậy vào khả năng cách mạng của nhân dân. Mặc dù vậy, bức thư một khi được công bố đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước. Tháng 7-1907, Phan Châu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở rộng giao du với cả một số người Pháp. Đầu tháng 3-1908, cuộc nổi dậy đòi giảm sưu thuế của nông dân bùng nổ tại Quảng Nam, rồi lan ra các tỉnh. Khâm sứ Trung Kỳ nhờ Thống sứ Bắc Kỳ cho bắt Phan Châu Trinh tại Hà Nội ngày 31-3, sau đó giải về Huế giao cho Nam triều giam giữ. Hội đồng xét xử gồm các quan lại Nam triều, có Khâm sứ Trung Kỳ ngồi dự đã kết án chém. Nhưng do sự can thiệp kịp thời của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Liên minh nhân quyền tại Hà Nội, Phan Châu Trinh chỉ bị đày đi Côn Đảo. Đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Đảo thẩm vấn riêng Phan Châu Trinh. Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án được thiết lập, ông được "ân xá", nhưng buộc phải xuống ở Mỹ Tho để quản thúc. Sau đó ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31-10-1908 của Chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, Phan Châu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật đi theo đoàn này. Sang tới Pháp, ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Nhiều Việt kiều tại Pháp cũng đến với Phan Châu Trinh. Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn Trường đã lập Hội đồng bào thân ái gồm những Việt kiều gắn bó với quê hương. Ông viết bản điều trần về cuộc đấu tranh chống sưu thuế năm 1908 ở miền trung Việt Nam gửi Liên minh nhân quyền. Cũng trong thời gian này, ông viết Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, cho rằng không thể nhìn Việt Nam một cách cô lập mà phải đặt trong mối quan hệ với thế giới, trước nhất là với các nước mạnh và với nước Pháp, cũng như không thể chỉ nhìn hiện tại mà phải nhìn lại lịch sử đã qua và phải tìm hiểu xu thế phát triển sắp tới, tạo nên cách nhìn cả thời lẫn thế. Trong những năm sống ở thủ đô Pháp, ông làm nghề sửa ảnh, sống thanh bạch. Năm 1926, ông về nước và mất ở Sài Gòn. Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước chân chính, có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể khẳng định rằng ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ. Tuy nhiên, Phan Châu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ - dù là do thực dân nắm giữ - để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Sai lầm chính của ông chính là ảo tưởng về chế độ dân chủ tư sản, về những khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của nước Pháp. Dân chủ vốn không phải là một phần thưởng có thể ban phát. Nếu nhân dân không có nhân cách thì sao xứng đáng có quyền dân chủ? Lấy ai mà giành quyền dân chủ? Đại đa số nhân dân ta nhiệt tình yêu nước, sẵn sàng "đem máu đổi lấy quyền tự do" (Phan Bội Châu), đó chính là điểm căn bản của nhân cách Việt Nam. Phan Châu Trinh rất sắc sảo nhìn ra yêu cầu dân chủ hóa đất nước, nhưng ông cũng không có điều kiện suy nghĩ kỹ càng về các chủ trương dân chủ hóa. Trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh những thiếu sót quan trọng mà ông không nhận ra không chỉ ở chỗ Phan Bội Châu nói: "Nước không còn nữa thì chủ cái gì". Song với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, sóng gió, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ. Sau cụ Phan là cuộc đời là sự nghiệp cách mạng của vị cha ià dân tộc Hồ Chí Minh mà tôi nghĩ đã là người Việt Nam thì ai cũng rõ ít nhiều. Chương trình lịch sử 12 học sinh tiếp tục học lịch sửb Việt Nam từ 1919-2000. Giáo viên giới thiệu đến các em về Nguyễn Thái Học, Trần Phú, Phạm Văn Đồng, Ở bài 20 – Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953-1954 giáo viên sẽ giới thiệu đến học sinh những câu chuyện về công cuộc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ: Vận chuyển pháo, lương thực; sự hy sinh trong chiến đấu của các anh hùng Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Trần Can, đặc biệt kể cho học sinh nghe về người trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 – Võ Nguyên Giáp. Ông sinh ngày 25/08/1911, quê quán làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, tham gia cách mạng 1925, nhập ngũ 1944, chính thức vào Đảng cộng sản Việt Nam 1940, 1948 được phong hàm cấp tướng. Quá trình tham gia cáchmạng: Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1925 khi mới 14 tuổi. Năm 1929, đồng chí tham gia cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành Đảng Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam vì tham gia các cuộc biểu tình chống Pháp. Không có chứng cớ, cuối cùng, chúng buộc tha đồng chí. Đồng chí tiếp tục hoạt động cách mạng trên mặt trận văn hoá, viết bài cho những tờ báo công khai như: Tin tức, Nhân dân, Tiếng nói của chúng ta, Lao động, làm biên tập viên cho các tờ báo của Đảng, dạy sử, địa cho Trường tư thục Thăng Long. Năm 1934, đồng chí kết duyên với Bà Nguyễn Thị Minh Thái, một Đảng viên Cộng sản, cộng sự đắc lực của đồng chí. Trong những năm tháng hoạt động bí mật, hai vợ chồng đồng chí sống ở số nhà 46 phố Nam Ngư, Hà Nội. Sau này, Bà Nguyễn Thị Minh Thái bị thực dân Pháp bắt, giết chết bà trong ngục nhà tù Hoả Lò. Từ năm 1936 đến 1939, đồng chí tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, biên tập viên các tờ báo của Đảng, Chủ tịch Uỷ ban báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Năm 1939, đồng chí cùng đồng chí Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Được sự dìu dắt của Người, năm 1940, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 5 năm 1941, đồng chí trở về Cao Bằng, tham gia gây cơ sở cách mạng, lập ra Mặt trận Việt Minh, tham gia chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng. Năm 1942, đồng chí phụ trách Ban Xung phong Nam tiến, dùng hoạt động tuyên truyền vũ trang mở đường liên lạc giữa miền núi với đồng bằng Bắc Bộ. Tháng 12/1944, đồng chí được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Ngày 22/12/1944, tại một khu rừng ở châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã uỷ nhiệm cho đồng chí đứng ra tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Đồng chí được giao nhiệm vụ trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy. Tháng 3/1945, đồng chí đưa Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến xuống phía Nam, hội quân với đội Cứu quốc quân của đồng chí Chu Văn Tấn ở vùng chợ Chu, Thái Nguyên để thống nhất tổ chức thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 4/8/1945, đồng chí là Uỷ viên Uỷ ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, làm Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang thống nhất mang tên Việt Nam Giải phóng quân, tham gia Uỷ ban Chỉ huy Lâm thời khu Giải phóng Việt Bắc. Đồng chí được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II, cử vào Ban Chấp hành Trung ương và là Uỷ viên Thường vụ ban Chấp hành Trung ương, tham gia Uỷ Ban Khởi nghĩa toàn quốc, Uỷ ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Lâm thời. Tháng 1/1946, đồng chí được cử là Chủ tịch quân sự, Uỷ viên hội đồng trong Chính phủ Liên hiệp, Phó trưởng đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đàm phán với Pháp tại Hội nghị ở Đà Lạt. Năm 1946, đồng chí kết hôn với Bà Đặng Thị Bích Hà (Con gái cố Giáo sư Đặng Thai Mai). Ngày 20/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 110/SL, phong đồng chí làm Đại tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 27/10/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương ra Nghị quyết: “Lập chế độ chính trị uỷ viên, đại diện chỉ huy kiêm Chính uỷ. Tháng 6/1950, có Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng chấn chỉnh tổ chức thành Bộ Quốc phòng, đồng chí là Tổng tư lệnh, Tổng chính uỷ, Bí thư Quân uỷ Trung ương. Đồng chí đảm nhiệm các cương vị trên từ năm 1945 đến năm 1975. Về Đảng, đồng chí liên tục được bầu là Uỷ viên Trung ương Đảng các khoá II (năm 1951), đến khoá VI (Ngày 20/12/ 1986), làm Uỷ viên Bộ Chính trị các khoá từ khoá II đến khoá VI. Đồng chí là đại biểu Quốc hội từ khoá I (năm 1946) đến khoá VI (Năm 1986). Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí trực tiếp chỉ huy các chiến dịch lớn: Biên Giới năm 1950, Điện Biên Phủ năm 1954. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí cùng Bộ Chính Trị chỉ đạo các chiến dịch lớn ở miền Nam Việt Nam, trong đó có Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam. Năm 1980, đồng chí thôi giữ chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rút khỏi Bộ Chính trị năm 1982. Cuối năm 1983, đồng chí được cử làm Chủ tịch Uỷ ban sinh đẻ có kế hoạch. Cuối năm 1993, đồng chí được suy tôn làm Chủ tịch danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Đồng chí là tác giả của nhiều tác phẩm và sách lý luận quân sự được xuất bản trong và ngoài nước. Từ năm 1948 đến nay, đồng chí có gần 70 đầu sách trong đó có sách văn học, có sách viết về đề tài khoa học kỹ thuật, kinh tế, có cuốn tái bản đến 5,6 lần. Ngoài ra còn có 21 tuyển tập gồm các lệnh động viên, báo cáo tổng kết, diễn văn, huấn thị, chỉ thị. -Phần thưởng được Đảng và nhà nước trao tặng: +Huân chương Sao vàng. +Hai huân chương Hồ Chí Minh. +Hai huân chương Quân công hạng nhất. +Huân chương chiến thắng hạng nhất. +Huân chương chiến công hạng nhất. +Huân chương kháng chiến hạng nhất. +Huân chương kháng chiến chống Mĩ hạng nhất. +Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Đồng chí được Nhà nước Lào tặng Huân chương vàng Quốc gia Lào, Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăng Co. Đồng chí được Đảng, Chính phủ các nước tặng nhiều Huân chương cao quý. Trong giai đoạn lịch sử này, nhân vật lịch sử nổi bật nhất là cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo viên cũng cần hướng dân học sinh nắm được những thông tin cần thiết về vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc. III. KẾT QUẢ: Với việc thực hiện lồng ghép giới thiệu nhân vật lịch sử vào trong bài giảng sẽ kích thích sự ham học hỏi, tìm hiểu lịch sử của học sinh, thông qua những câu chuyện lịch sử không còn là một môn học khô khan và khó khăn. Qua cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật được giới thiệu học sinh sẽ có thể nắm được một số mốc lịch sử, sự kiện lịch sử ở giai đoạn nhân vật lịch sử đang sống và hoạt động. Đồng thời khơi dậy lòng yêu quê hương đất nước, lòng biết ơn đối với tổ tiên, tôn kính các vị anh hùng dân tộc. Đó lá ý nghĩa giáo dục cần đạt của môn học này. Làm cho học sinh có cái nhìn và thái độ đúng đắn hơn đối với môn học mà các em xem là “phụ”, góp phần nhỏ vào giáo dục toàn diện học sinh theo lời Bác: “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Hay khi các em đi trên một con đường mang tên một danh nhân đất Việt, các em có thể biết rằng người đó là ai, sống vào thời kỳ nào, có những đóng góp gì cho đất nước. C. PHẦN KẾT LUẬN Để học sinh học tốt môn lịch sử, để phụ huynh và học sinh có cái nhìn đúng đắn về môn học, đạt được hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh thì bên cạnh đổi mới phương pháp và hiện đại hóa phương tiện giảng dạy như dạy học bằng giáo án điện tử, cho học sinh xem hình, xem phim, hay sơ đồ hóa trong giảng dạy thì việc giới thiệu đến cho các em biết về những nhân vật lịch sử tiêu biểu qua từng thời kỳ là cần thiết. Những con người cụ thể với những đóng góp cho quê hương đất nước, đó là những tấm gương sáng cho học sinh noi theo, để qua những nhân vật lịch sử các em hiểu rõ hơn về lịch sử dân tộc, về lòng nhân ái, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của người con đất Việt. Và trong xã hội hiện đại này, các em biết phải làm gì để xứng đáng với cha ông, làm sao để xây dựng và phát triển đất nước trước mọi âm mưu của kẻ thù. Đây là chuyên đề đầu tiên, chắc chắn còn nhiều thiếu sót, mong quý đồng nghiệp nhiệt tình đóng góp để chuyên đề của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cám ơn. I SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÀ VINH TRƯỜNG THPT PHẠM THÁI BƯỜNG c&d Giáo viên thực hiện : Trịnh Thị Ngọc Lan Võ Thị Hồng Mai Nguyễn Thị Trúc Linh Tổ Sử-GDCD Năm học: 2009-2010
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_gioi_thieu_nhan_vat_lich_su_viet_nam_v.doc