Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học Lịch sử ở trường THPT
I. Lý do chọn đề tài.
«Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế đặc biệt trong việc phát triển con người toàn diện: “...giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ ... có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Đây là hành trang cần thiết để hình thành nhân cách con người và văn hóa Việt Nam, giúp thế hệ trẻ vươn lên trong cuộc sống và hội nhập với thế giới».[6]
Học tập để lĩnh hội tri thức là rất quan trọng đối với con người ở mọi thời đại. Học mọi nơi, mọi lúc, học bằng mọi nguồn tài liệu và kênh thông tin khác nhau, học rộng, hiểu sâu, biết được nhiều nguồn tri thức của nhân loại. Từ khi các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống thông tin liên lạc phát triển, việc dạy và học đã có nhiều thuận lợi. Một vấn đề thiết thực hiện nay tôi thấy là: các môn học trong chương trình phổ thông đã bao quát một cách khái quát những vấn đề cơ bản của tự nhiên, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của con người. Các môn học trong chương trình không hề tách rời thực tế vận dụng vào cuộc sống. Tri thức do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất, qua lịch sử phát triển. Đối với các em học sinh, nhận thức được nguồn tri thức trên nhiều mặt, từ tri thức về khoa học tự nhiên đến tri thức về khoa học xã hội và nhân văn, là điều rất cần thiết, giúp các em có cách nhìn toàn diện, nhận thức sâu sắc về tự nhiên, về xã hội loài người, về thế giới, có cách hành dụng để giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành một số năng lực cho học sinh qua bài học Lịch sử ở trường THPT

chú: các em hãy suy nghĩ trước, tới học kì II, phần Lịch sử Việt Nam 1858-1918, chúng ta sẽ trả lời đầy đủ câu hỏi này), “Đánh giá vai trò của triều đình Rama-IV, Rama-V trong việc bảo vệ độc lập dân tộc của Xiêm, cuối thế kỉ XIX.”. Bài 9 : «Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917... ».[2] Ở bài này, kiến thức học sinh cần lĩnh hội khá rộng. Từ hoàn cảnh lịch sử đến diễn biến, kết quả, ý nghĩa to lớn của Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917. Cần hình thành năng lực lí giải, liên hệ và đánh giá tác động to lớn của Cách mạng tháng 10 đối với phong trào cách mạng thế giới. Những tư tưởng vĩ đại của Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Liên hệ Cách mạng tháng 10 Nga với cách mạng Việt Nam là rất cần thiết, bởi lẽ Nguyễn Ái Quốc đã quyết định hướng cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, đi theo con đường Cách mạng tháng 10 Nga, theo chủ nghĩa Mác-Lê-nin. Câu hỏi hình thành năng lực cho học sinh là “Lí giải tại sao năm 1917, nước Nga lại diễn ra 2 cuộc cách mạng?”, “Hãy liên hệ ảnh hưởng của Cách mạng tháng 10 Nga đối với cách mạng Việt Nam.”. Học sinh hiểu hơn về ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam, như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “...Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông, Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt, Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc, Sao vàng bay theo liềm búa công nông, Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc, Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin, Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp, Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin...”. [5] Bài 11 : «Các nước tư bản chủ nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới». [2].Kiến thức lĩnh hội qua bài này là sự hình thành trật tự thế giới mới theo hệ thống Vécxai - Oasinhtơn và nguyên nhân, biểu hiện, hậu quả to lớn của cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933. Học sinh đánh giá được rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ 2 chính là trật tự thế giới mới theo hệ thống Vécxai-Oasinhtơn, một trật tự không công bằng làm nảy sinh đầy rẫy những mâu thuẫn trong tương lai. Một nguyên nhân khác dẫn đến chiến tranh thế giới thứ 2 là do hậu quả của cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 làm xuất hiện chủ nghĩa phát xít-một thứ chủ nghĩa sô vanh gắn liền với chiến tranh. Học sinh cũng đánh giá được bản chất tàn bạo của chủ nghĩa tư bản thời kì này qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, quy luật kinh tế của nó, và các cuộc chiến tranh do chính nó gây ra. Câu hỏi định hướng hình thành năng lực cho học sinh là «Tại sao nói với trật tự thế giới theo hệ thống Vécxai – Oasinhtơn, hòa bình thế giới chỉ là tạm thời và mỏng manh ?», «Em có suy nghĩ gì (có quan điểm như thế nào) về trật tự thế giới theo hệ thống Vécxai – Oasinhtơn?», «Hãy đánh giá ngắn gọn bản chất của chủ nghĩa tư bản qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933.». Bài 13 : «Nước Đức giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới».[2] Kiến thức lĩnh hội qua bài này là sự xuất hiện chủ nghĩa phát xít ở nước Đức và nguy cơ chiến tranh của nước Đức quốc xã. Giáo viên giúp học sinh liên hệ ngày nay, tổ chức nhà nước Hồi giáo IS, đó là những cỗ máy giết người rất tàn bạo trong lịch sử. Bài 19 : « Chiến tranh thế giới thứ 2 »[2]. Kiến thức lĩnh hội qua bài này là con đường (những nguyên nhân) dẫn đến chiến tranh. Giáo viên giúp học sinh lập luận được rằng, để Chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra, các bên liên quan đều phải chịu trách nhiệm. Câu hỏi định hướng năng lực là «Đánh giá trách nhiệm của các nước trong việc để Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ». Chủ nghĩa phát xít là kẻ đầu sỏ gây ra chiến tranh ; Anh, Pháp và một số nước Tây Âu là kẻ dung dưỡng, thỏa hiệp, khiếp sợ, nhượng bộ để cho chủ nghĩa phát xít tự do hành động ; Mĩ – một nước có tiềm lực mạnh - cũng chủ trương nhượng bộ, không can thiệp vào những sự kiện xảy ra bên ngoài châu Mĩ ; mặt khác, cả Anh, Pháp, Mĩ đều muốn mượn bàn tay phát xít để tiêu diệt Liên Xô ; Liên Xô đã kí với Đức «Hiệp ước Xô-Đức không xâm lược nhau» để cho phát xít Đức yên tâm phát động chiến tranh. Như vậy, học sinh sẽ xác định được ai là kẻ đầu sỏ, ai là kẻ tòng phạm - tiếp tay, ai là kẻ liên đới khiến chiến tranh diễn ra. Cũng qua bài này, cần hướng dẫn học sinh rút ra bài học cho công cuộc bảo vệ hòa bình thế giới và khu vực, kiên quyết chống lại âm mưu gây chiến của các thế lực hiếu chiến. Giáo viên định hướng giúp học sinh dự đoán tương lai «Liệu có chiến tranh thế giới thứ 3 hay không ?!, và nếu có thì bên nào sẽ thắng ?!. Bài 21 : «Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX».[2] Ở bài này, học sinh cần xác định được toàn cảnh phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX: nơi diễn ra vụ biến Kinh thành Huế, nơi ban chiếu Cần vương, diễn biến phong trào Cần vương, nơi có các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu,... Học sinh hiểu hơn về lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê (Phan Đình Phùng) và đánh giá được rằng tại sao cuộc khởi nghĩa này được coi là tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX. Ngoài ra, giáo viên cũng giúp học sinh đánh giá khái quát được rằng, phong trào Cần vương chống Pháp rất quyết liệt, lực lượng tham gia đông đảo, quy mô rộng lớn ... nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Các em sẽ rút ra được một số nguyên nhân (khách quan, chủ quan) dẫn tới thất bại của phong trào Cần vương, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất thuộc về ngọn cờ phong kiến yêu nước lỗi thời và giai cấp lãnh đạo cũng lỗi thời. 3. Với chương trình lịch sử lớp 12 Bài 1: «Sự hình thành trật tự thế giới mới sau CTTG thứ 2 »[3] Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết[5] Ở bài này, học sinh cần xác định được cục diện toàn thế giới với đặc trưng nổi bật phân chia 2 cực Đông-Tây (sự hỗ trợ của máy chiếu, chiếu rõ 2 màu nổi bật của mỗi phe). Học sinh sẽ hiểu được về trật tự thế giới, sự phân chia 2 cực Ianta, thế giới trong tình trạng Chiến tranh lạnh. Học sinh cũng có thể hiểu rằng sự phân chia Đông-Tây không đơn thuần theo mặt địa lí, mà chủ yếu theo yếu tố địa chính trị. Giáo viên giúp học sinh mở rộng liên hệ ngày nay và rút ra rằng nhiều quốc gia đang cố gắng mở rộng ảnh hưởng của mình ra khu vực và thế giới, quan hệ quốc tế không phải là thứ bất biến mà luôn biến đổi, nhưng xu thế trong quan hệ quốc tế là hòa bình, ổn định, hợp tác, cùng phát triển, một trật tự thế giới đa cực đang hình thành, trong đó mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều có vai trò và trách nhiệm trước những vấn đề toàn cầu đang nảy sinh. Ngoài ra, tổ chức Liên hợp quốc - một tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh được giới thiệu qua bài học cũng giúp các em nắm vững một phần kiến thức quan trọng. Nếu thường xuyên xem chương trình thời sự quốc tế hoặc nghe đài phát thanh phần tin quốc tế, các em sẽ được giới thiệu và cập nhật thường xuyên các hoạt động của Liên hợp quốc cũng như vai trò của tổ chức này trong tình hình hiện nay, đặc biệt là việc giải quyết các vấn đề toàn cầu (biến đổi khí hậu dẫn đến băng tan và nước biển dâng, vấn đề đói nghèo, bùng nổ dân số, các đại dịch lớn trên thế giới, chủ nghĩa khủng bố,...), giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột khu vực. Câu hỏi định hướng hình thành năng lực cho học sinh là «Tại sao nói, bước sang thế kỉ XXI, xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế là hòa bình, ổn định, hợp tác, cùng phát triển?», «Bước sang thế kỉ XXI, loài người đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức nào?», «Anh (chị) có suy nghĩ gì về vai trò của tổ chức Liên hợp quốc từ khi thành lập đến nay?».[8] Bài 16: «Phong trào GPDT và Tổng K/N tháng Tám (1939-1945)»[3]. Ở bài này, kiến thức hình thành cho học sinh với dung lượng khá nhiều, từ vấn đề hoàn cảnh lịch sử đến chủ trương của Đảng, quá trình chuẩn bị cho cách mạng của Đảng và nhân dân ta, chủ động tạo thời cơ và đón nhận thời cơ, nắm bắt thời cơ phát lệnh Tổng khởi nghĩa, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám. Năng lực hình thành cho học sinh qua bài học này gồm năng lực ghi nhớ, phân tích, đánh giá, liên hệ. Câu hỏi định hướng năng lực hình thành cho học sinh là «Đánh giá công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám-1945.», «Phân tích sự sáng suốt và nhạy bén của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng, từ 11/1939 đến 8/1945.», «Phân tích thời cơ của Cách mạng tháng Tám-1945 ở Việt Nam.», «Hãy rút ra một số bài học kinh nghiệm quan trọng của Cách mạng tháng Tám-1945. Hãy vận dụng một bài học quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.»[7]. Bài 20: «Cuộc kháng chiến chống TD Pháp kết thúc (1953-1954)»[3]. Ở bài này, học sinh cần nắm vững Kế hoạch Nava của Pháp, dùng lược đồ hình thái chiến trường Đông Dương xác định cuộc tiến công của ta trong đông xuân 1953-1954,vị trí chiến lược quan trọng của Điện Biên Phủ, diễn biến, kết quả, ý nghĩa Chiến dịch Điện Biên Phủ, nội dung Hiệp định Giơnevơ, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp. Qua mỗi tiết học (hoặc nếu dạy chuyên đề), giáo viên giúp học sinh hình thành các năng lực ghi nhớ, phân tích, đánh giá, liên hệ. Các câu hỏi cho học sinh phát triển tư duy là “Tại sao ta mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954?”, “Phân tích vị trí quan trọng chiến lược của Điện Biên Phủ.”, “Tại sao nói trận Điện Biên Phủ là chiến thắng lớn nhất của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?”, “Trình bày nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ năm 1954.”, “Tìm những yếu tố giống và khác nhau giữa nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám-1945 với nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954.”[7]. Bài 22: «Nhân dân 2 miền trực tiếp chống ĐQ Mĩ xâm lược (1965-1973)»[3]. Học sinh cần nắm rõ âm mưu, thủ đoạn của Mĩ – ngụy qua các chiến lược chiến tranh, những thắng lợi tiêu biểu của quân dân ta trên các mặt trận, âm mưu, thủ đoạn của Mĩ trong 2 lần đánh phá miền Bắc, trận Điện Biên Phủ trên không, Hiệp định Pari 1973. Giáo viên giúp học sinh hình thành các năng lực theo hệ thống câu hỏi, như: “Âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mĩ trong chiến lược Chiến tranh cục bộ?”, “So sánh rút ra những điểm giống và khác nhau giữa 2 chiến lược Chiến tranh đặc biệt và Chiến tranh cục bộ.”, “Âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mĩ trong 2 lần gây chiến tranh phá hoại miền Bắc?”, “Tại sao đế quốc Mĩ mở cuộc tập kích đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng ... trong 12 ngày đêm cuối 1972?”, “Trình bày nội dung cơ bản và phân tích ý nghĩa quan trọng nhất của Hiệp định Pari năm 1973.”[8]. Bài 23: «Giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)»[3]. Ở bài này, kiến thức học sinh cần lĩnh hội là hoàn cảnh lịch sử mới sau Hiệp định Pari chủ trương, kế hoạch giải phóng miền Nam của Bộ Chính trị, diễn biến, kết quả, ý nghĩa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 qua 3 chiến dịch lớn, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống mĩ, cứu nước 1954-1975. Giáo viên giúp học sinh hinh thành năng lực qua các câu hỏi định hướng, như: “Phân tích hoàn cảnh lịch sử mới sau Hiệp định Pari 1973 hoặc Tại sao Đảng ta đề ra chủ trương, kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976?”, “Tại sao ta chọn Tây Nguyên mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975?”, “Phân tích nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống mĩ, cứu nước 1954-1975 và xác định nguyên nhân quan trọng nhất.”[8] III. Một số vấn đề lưu ý khi hình thành năng lực cho học sinh qua bài học Lịch sử ở trường THPT - Truyền tải các thông tin lịch sử quá khứ, liên hệ hiện tại và dự đoán tương lai là vai trò của lịch sử. Lịch sử không chỉ có nắm bắt sự kiện. Yếu tố «luận» trong lịch sử rất quan trọng. Do vậy, hiểu lịch sử và đánh giá được nó, rút ra bản chất và bài học, liên hệ thực tiễn và vận dụng vào thực tiễn là những nội dung quan trọng nhất. - Cấp học khác nhau và đối tượng học sinh khác nhau dẫn đến việc nhận thức lịch sử khác nhau. Do đó, các năng lực hình thành cho học sinh cũng ở cấp độ khác nhau. Đối với học sinh yếu và trung bình, chỉ nên hình thành cho các em một số năng lực ở cấp độ thấp ; ngược lại, học sinh khá, giỏi, học sinh yêu thích lịch sử cần giúp các em hình thành các năng lực ở cấp độ cao, hướng các em tới mức độ đánh giá, nhận định, bình luận, liên hệ thực tiễn, rút ra bài học, dự đoán tương lai phát triển ... - Cần vận dụng kiến thức liên môn với một số môn học gần gũi về kiến thức văn học, văn hóa, địa lí, giáo dục công dân cùng truyền tải những thông tin chính trị - kinh tế - giáo dục - xã hội liên quan đời sống con người, góp phần khắc sâu và củng cố kiến thức lịch sử. - Cần đứng trên quan điểm lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin để đánh giá sự kiện, hiện tượng, giúp học sinh nhận thức đúng đắn, không xuyên tạc, thổi phồng, bóp méo, nhận thức lệch lạc về lịch sử, góp phần phát triển thế giới quan. - Hình thành các năng lực cho học sinh không nằm ngoài yếu tố vận dụng thực tiễn, liên hệ quá khứ để nhận thức, đánh giá hiện tại và ngược lại, để giải quyết các câu hỏi, bài tập vận dụng, đề thi trong các kì thi. C. KẾT LUẬN Xuất phát từ kinh nghiệm của bản thân, từ thực tế giảng dạy, bản thân tôi đúc rút kinh nghiệm mong muốn đem lại cho các em học sinh hứng thú hơn trong học tập môn Lịch sử, có thể nhận thức tốt hơn các sự kiện, hiện tượng, vấn đề lịch sử, có thể hiểu sâu hơn, nhận thức tổng quát và rộng hơn vấn đề, từ đó có thể xử lý trong tình huống cụ thể. Việc hình thành các năng lực trong học tập bộ môn Lịch sử cũng đòi hỏi các em phải yêu thích môn lịch sử và có kiến thức tổng hợp rộng từ nhiều môn học. Tôi đã nêu lên một số tình huống vận dụng cụ thể và định hướng các năng lực hình thành cho học sinh qua hệ thống câu hỏi, qua hướng dẫn của giáo viên để học sinh có thể tham khảo, trả lời, kiểm tra sự hiểu biết và nâng cao năng lực phân tích, đánh giá, bình luận, so sách ... vấn đề lịch sử. Các tình huống nêu trên, học sinh phải đọc kĩ để lựa chọn năng lực cần hình thành cho bản thân phù hợp với nhận thức. Sáng kiến này không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của quý thầy cô, những người cùng chuyên môn, kể cả các đồng nghiệp và các em học sinh, để Sáng kiến được hoàn thiện hơn và tiếp tục được thực hiện trong năm học tới và những năm học tiếp theo. Xin trân trọng cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách Giáo khoa Lịch sử lớp 10 (Chương trình THPT, ban Cơ bản, xuất bản 2015). 2. Sách Giáo khoa Lịch sử lớp 11 (Chương trình THPT, ban Cơ bản, xuất bản 2015). 3. Sách Giáo khoa Lịch sử lớp 12 (Chương trình THPT, ban Cơ bản, xuất bản 2015). 4. Đại cương Lịch sử Việt Nam, Đại cương Lịch sử thế giới. 5. Tập Bản đồ Giáo khoa Lịch sử THPT. 6. Nguồn thông tin bổ trợ trên mạng Intrenet (những vấn đề lịch sử thế giới và trong nước đáng chú ý từ 2011 đến nay). 7. Đề thi THPT năm 2015 của Bộ, Sở GD&ĐT(Đề thi thử, Đề thi đề xuất và Đề thi chính thức). 8. Đề cương ôn thi THPT Quốc gia năm học 2015-2016, môn Lịch sử (tự biên soạn). 9. Các chương trình thời sự trên Đài Truyền hình, Đài Tiếng nói Việt Nam.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_hinh_thanh_mot_so_nang_luc_cho_hoc_sin.doc
bia_skkn.doc