Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh khai thác đồ dùng dạy học Lịch sử lớp 10, 11 theo hướng tích cực ở trường THPT Thị xã Nghĩa Lộ
Cùng với sự phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam đang từng bước được đổi mới đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “ Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Đảng ta đã xác định giáo dục là “ quốc sách hàng đầu”. Thực hiện mục tiêu giáo dục “ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Ngày nay khi nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong công cuộc đổi mới đề ra những yêu cầu mới đối với hệ thống giáo dục, phải “ xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo”. Sự đổi mới về mục tiêu, nội dung dạy học đòi hỏi có những đổi mới về phương pháp dạy học.
Trong những năm gần đây việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, người thầy chỉ giữ vai trò tổ chức, hướng dẫn giúp học sinh tích cực chủ động tìm tòi, khám phá, lĩnh hội kiến thức mới song song với việc hình thành các kỹ năng cơ bản. Với đặc trưng của bộ môn Lịch sử thì việc đổi mới phương pháp dạy học là vô cùng cần thiết và cấp bách, bởi vì ngoài việc cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản và bổ ích thì giáo viên cũng phải hình thành cho các em những khái niệm cơ bản. Đồng thời giáo viên giúp học sinh nhận thức đúng về những chặng đường phát triển của lịch sử thế giới cũng như của lịch sử dân tộc. Qua đó giúp các em có những nhận thức đúng về lịch sử và vai trò của bộ môn. Lịch sử là bộ môn khoa học xã hội chuyên nghiên cứu tìm hiểu về những gì đã diễn ra trong quá khứ, yêu cầu học sinh phải có sự tư duy, phân tích, so sánh để nắm được những nội dung kiến thức cơ bản. Hiểu được một vấn đề lịch sử là rất khó và phức tạp.
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh khai thác đồ dùng dạy học Lịch sử lớp 10, 11 theo hướng tích cực ở trường THPT Thị xã Nghĩa Lộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh khai thác đồ dùng dạy học Lịch sử lớp 10, 11 theo hướng tích cực ở trường THPT Thị xã Nghĩa Lộ
ý bởi trong hệ thống của bản đồ, lược đồ có cả bản đồ trống do đó giáo viên phải cho học sinh làm quen với loại bản đồ này để hình thành các kỹ năng sử dụng cho học sinh. Giáo viên nên sử dụng loại bản đồ trống trong các tiết Bài tập lịch sử. IV. áp dụng cụ thể: ( qua sách giáo khoa lịch sử lớp 10, 11 chương trình chuẩn). 1. Khai thác tranh ảnh: Ví dụ 1: Giáo viên sử dụng bức ảnh trong Bài 3: Trung Quốc (sách giáo khoa lớp 11- chương trình chuẩn). Hình 6. Trang 13. Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh “ Các nước đế quốc xâu xé cái bánh ngọt Trung Quốc”. Sau đó giáo viên nêu câu hỏi để học sinh suy nghĩ: ? Bức tranh này nói lên điều gì? Vì sao người ta lại ví Trung Quốc như cái bánh ngọt khổng lồ bị chia cắt như vậy? Sau đó giáo viên cho học sinh suy nghĩ, thảo luận và rút ra những nhận xét của riêng mình. Giáo viên có thể gọi 2 hoặc 3 học sinh trả lời trình bày nội dung của mình sau đó giáo viên mới đi tới giải thích: Đây là bức tranh biếm hoạ trong sách giáo khoa lịch sử của Pháp với dòng chú thích “ Chiếc bánh ngọt ga- tô Trung Hoa” ví Trung Quốc hồi cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX như một miếng mồi béo bở khiến các nước đế quốc phải tranh chấp, giành giật lẫn nhau, nhưng đó lại là “ chiếc bánh khổng lồ” mà không một nước đế quốc nào có thể “nuốt” nổi một mình, buộc chúng phải chia xẻ với nhau. Quá trình xâm lược Trung Quốc của các nước đế quốc được miêu tả qua hình ảnh cái bánh ngọt lớn đã bị cắt rời từng phần. Ngồi xung quanh là 6 người lăm lăm chiếc dĩa trong tay với tư thế sẵn sàng xông vào “mâm bánh”. Kể từ trái qua phải, đó là chân dung của Hoàng đế Đức, Tổng thống Pháp, Nga hoàng, Nhật hoàng, Tổng thống Mĩ và Thủ tướng Anh đương thời. Cuối cùng giáo viên rút ra kết luận “ Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Trung Quốc chưa thực sự trở thành thuộc địa của một thế lực đế quốc nào nhưng các thế lực đế quốc đua nhau xâu xé Trung Quốc”. Ví dụ 2: Giáo viên sử dụng bức ảnh trong Bài 18: Công cuộc xây dựng vàphát triển kinh tế trong các thế kỷ X – XV ( sách giáo khoa lớp 10 chương trình chuẩn). Hình 36. Trang 93. Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh “ Hình rồng và hoa dây” và nêu câu hỏi để học sinh suy nghĩ: ? Hình tượng rồng thời Lý được các nhà điêu khắc trạm trổ như thế nào? Sau khi học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên nhận xét và miêu tả: Rồng mình trơn, toàn thân uốn khúc, uyển chuyển như một ngọn lửa. Đầu rồng tỷ lệ cân đối với thân rồng, chân rồng thanh mảnh, thường có 3 móng. Toàn bộ con rồng có những hoa văn uốn lượn theo hình chữ S tượng trưng cho nguồn nước, mây mưa, sấm chớp. Có thể nói hình tượng con rồng thời Lý gắn liền với nguồn gốc lịch sử dân tộc ta – Con Rồng cháu Tiên, đồng thời nó cũng nói lên ước mơ mong muốn mưa gió thuận hoà mùa màng tốt tươi của cư dân trồng lúa nước. Giáo viên nhấn mạnh: Sự thật rồng chỉ là con vật tưởng tượng của con người thời xưa, ban đầu không mang quy cách thống nhất. Giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh liên hệ vì sao vua Lý Thái Tổ đặt tên kinh đô là Thăng Long. Giáo viên nêu câu hỏi: ? Hình rồng thời Lý còn thể hiện sự phát triển của ngành kinh tế nào ở nước ta thời bấy giờ? Sau khi học sinh suy nghĩ và trả lời giáo viên chốt lại ý cơ bản như sau: Hình rồng và hoa văn thể hiện sự phát triển của ngành kiến trúc và điêu khắc với trình độ trạm trổ tinh vi lúc bấy giờ. Ví dụ 3: Giáo viên sử dụng bức ảnh trong Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương Tây – Hi lạp và Rô - Ma.( Sách giáo khoa Lớp 10 – Chương trình nâng cao). H.12.T.31. Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh “ Pê-ri-clet” và nêu câu hỏi để học sinh suy nghĩ: ? Ông là ai? Là người thế nào? Tại sao ông lại được tạc tượng như vậy? Sau khi học sinh quan sát suy nghĩ và trả lời giáo viên đưa ra kết luận cuối cùng: Ông là Pê-ri-clet. Ông là người anh hùng của Hi Lạp , chỉ huy đánh thắng quân Ba Tư, ông có công xây dựng A-ten đẹp đẽ. Trong xã hội dân chủ cổ đại, hình tượng cao quý nhất là người chiến sĩ bình thường, gần gũi, thân mật, được đặt ở quảng trường để dân chúng tôn kính, ngưỡng mộ. 2. Khai thác lược đồ, bản đồ: Ví dụ 1: Giáo viên sử dụng lược đồ “ Đông Nam á cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX”. Hình 9. Trang 18. Bài 4: Các nước Đông Nam á ( cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX).( Sách giáo khoa lớp 11 – chương trình chuẩn). Giáo viên chuẩn bị lược đồ “Đông Nam á cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX” của Bộ Giáo dục & Đào tạo. Trước hết giáo viên treo lược đồ lên bảng ở vị trí trung tâm nhất của cả lớp để các em có thể nhìn rõ toàn bộ nội dung của lược đồ. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát kỹ cả về những ký hiệu, đường danh giới, mầu sắc của lược đồ. Sau đó giáo viên gọi học sinh đọc nội dung tên và chú giải của lược đồ. Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh suy nghĩ: ? Em có nhận xét gì về các nước Đông Nam á cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX? Sau khi học sinh quan sát, suy nghĩ trên lược đồ giáo viên gọi 1 hoặc 2 học sinh đứng dậy trả lời theo yêu cầu mà câu hỏi giáo viên đã đưa ra. Sau khi học sinh đã trả lời song giáo viên chốt ý bằng việc hệ thống lại trên lược đồ: Có thể nhìn trên lược đồ sẽ thấy ngay cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX các nước tư bản phương Tây đua nhau xâm lược vào khu vực Đông Nam á. Nhân dân các nước Đông Nam á đấu tranh quyết liệt nhưng không chống lại được sự xâm lược của các nước tư bản. Hầu hết các nước Đông Nam á đều trở thành thuộc địa của tư bản phương Tây: Thực dân Anh chiếm Miến Điện, Mã Lai, Bru- nây; Thực dân Pháp chiếm Việt Nam, Lào, Cam- pu- chia; Thực dân Hà Lan chiếm In- đô- nê- xi- a; Thực dân Tây Ban Nha chiếm Phi- lip- pin; Thực dân Bồ Đào Nha chiếm Đông Ti- mo. Duy nhất chỉ có Xiêm ( Thái lan ) không trở thành thuộc địa của một đế quốc thực dân nào nhưng nằm trong vùng ảnh hưởng tranh chấp giữa Thực dân Anh và Pháp. Xiêm là nước duy nhất ở Đông Nam á giữ được nền độc lập tương đối về chính trị. Cuối cùng giáo viên đưa ra câu hỏi: ? Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX Đông Nam á là thuộc địa chủ yếu của đế quốc thực dân nào? Do đã quan sát từ đầu vì thế học sinh dễ dàng đưa ra nhận xét “ Các nước đế quốc Anh và Pháp là những thế lực có nhiều thuộc địa ở khu vực Đông Nam á giai đoạn này”. Ví dụ 2: Đây là loại lược đồ trống do đó giáo viên nên đưa vào các tiết bài tập lịch sử để phát huy hết khả năng của học sinh đồng thời qua đó rèn thêm cho các em về kỹ năng sử dụng lược đồ đặc biệt là loại lược đồ câm. Giáo viên sử dụng lược đồ “ Kháng chiến chống Tống thời Lý(1075 – 1077) trong Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X – XV. (Sách giáo khoa lớp 10 – chương trình chuẩn). Vì đây là lược đồ trống do đó khi sử dụng giáo viên và học sinh dùng bút dạ kết hợp với bài viết trong sách giáo khoa để miêu tả, tường thuật diễn biến công cuộc chuẩn bị phòng ngự của ta và cuộc tiến công của quân Tống; diễn biến cuộc kháng chiến chống Tống dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt. Trước hết giáo viên nêu câu hỏi: ? Hãy cho biết khái quát về cuộc tiến công của quân Tống khi xâm lược nước ta? Sau khi học sinh suy nghĩ trình bày cuộc xâm lược quân Tống trên lược đồ, giáo viên nhận xét, có thể giới thiệu như sau: Nhìn vào lược đồ chúng ta thấy chiến trường trong cuộc kháng chiến chống Tống diễn ra cả trên bộ và trên biển. Lực lượng của quân Tống gồm 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa và 20 vạn dân phu do tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy từ Ung Châu phân thành nhiều mũi vượt qua biên giới tràn vào nước ta (giáo viên kết hợp lời nói với việc dùng bút dạ vẽ đường tiến công của quân Tống trên lược đồ). Một đạo quân thuỷ cũng được lệnh vượt biển sang tiếp ứng. Về phía ta, đã chủ động bố trí lực lượng đón đánh địch ở ngay các cửa ải biên giới do các tướng Lưu Kỳ, Thân Cảnh Phúc, Lý Kế Nguyên chỉ huy. Sau khi bị thua ở cửa ải Lý Quyết ( Lạng Sơn) và bị đánh tơi bời ở cửa biển Quảng Ninh, quân Tống tập trung lực lượng cố tiến về Thăng Long, nhưng chúng đã gặp phải phòng tuyến rất kiên cố, vững chắc của quân ta. Đến đây giáo viên có thể đưa ra câu hỏi cho học sinh: ? Đó là phòng tuyến nào? Em hãy cho biết nét chính về phòng tuyến đó? Giáo viên hướng dẫn học sinh suy nghĩ và trả lời câu hỏi. Sau đó giáo viên nhận xét và trình bày: Đó là phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Phong tuyến này được xây dựng trên bờ sông Như Nguyệt ( Bắc Ninh). Nhìn trên lược đồ chúng ta có thể thấy phòng tuyến Như Nguyệt được xây dựng ngay ở đoạn sông mà các con đường từ phía Bắc về Thăng Long đều phải đi qua, phòng tuyến dài gần 100 km, được đắp cao, có dào tre dầy đặc, chắc chắn, chạy dài từ Đông Bắc dãy Tam Đảo đến sườn tây dãy Nham Biền ( Yên Dũng – Bắc Giang). Dưới sông có thuỷ quân, trên thành có quân đóng và tuần tiễu, tập trung ở những bến sông, nơi có đường giao thông đi qua. Tiếp đến giáo viên yêu cầu học sinh trình bày những diễn biến chính cuộc kháng chiến chống Tống trên lược đồ. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên nhận xét và hoàn chỉnh tường thuật diễn diến như sau: Đến tháng 1 / 1077, quân Tống tiến tới bờ Bắc sông Cầu, cánh quân phải tập trung ở bờ Bắc sông Cầu, cánh quân trái đóng ở Thị Cầu. Hai lần quân Tống đóng bè tiến sang bờ Nam nhưng đều bị quân ta đánh trả quyết liệt, phải lui về bờ Bắc. Thời gian kéo dài quân Tống mệt mỏi, ốm đau, bệnh tật, và khủng hoảng về tinh thần, nỗi ám ảnh về bài thơ thần làm cho tinh thần của quân Tống bị lung lay. Giữa lúc đó quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy phản công quân địch bị thiệt hại lớn. Đến tháng 2/1077, sau khi được quân ta chủ động đề nghị giảng hoà, quân Tống vội vã rút quân về nước. Cuộc kháng chiến chống Tống kết thúc quân ta giành thắng lợi hoàn toàn. Kết thúc bài học giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài thơ thần: “Nam quốc sơn hà” “ Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” Phần III : Kết luận. I. Kết quả thử nghiệm, hiệu quả của đề tài: - Học sinh ở 2 khối lớp 10, 11 đã được học liên tục chương trình sách giáo khoa mới từ các cấp học dưới do đó các em đã phần nào làm quen với phương pháp dạy học tích cực mà trong đó học sinh làm việc là chính. Tuy nhiên vẫn còn có những học sinh lười học ít động não, suy nghĩ, học theo phương pháp cũ, thụ động trong quá trình vận động tiếp thu kiến thức qua bài dạy của thầy, cô giáo mà đặc biệt là các em ở ban cơ bản học theo chương trình chuẩn. - Sau khi áp dụng về đổi mới phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học Lịch sử lớp 10, 11 trong gần một học kỳ vừa qua tôi nhận thấy phần lớn các em đã quen với phương pháp mới. Các em đã chủ động nghiên cứu, khai thác tranh ảnh, lược đồ trong bài học theo yêu cầu của giáo viên. Các em đã tích cực chủ động hơn trong học tập, làm bài tập trên lược đồ, bản đồCác em có hứng thú học tập bộ môn, có ý thức, động cơ học tập tốt hơn. Số học sinh đạt điểm khá tăng, giỏi tăng lên, số học sinh đạt điểm trung bình nhiều, số học sinh yếu giảm rõ rệt. - Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những học sinh lười học, không chú ý nghe giảng do đó kết quả học tập chưa cao. Chưa biết được các kỹ năng cần thiết nhất của việc khia thác tranh ảnh, lược đồ, bản đồchưa nắm được những nội dung cơ bản của bài học. * Kết quả trước và sau khi áp dụng đề tài: + Trước khi áp dụng đề tài: Lớp Giỏi- Khá Trung bình Yếu 10B1 12,5% 62,5% 25% 11B1 10% 62,4% 27,6% 11B2 9,8% 69,7% 21,5% + Sau khi áp dụng đề tài: Lớp Giỏi – khá Trung bình Yếu 10B1 23,4% 70,4% 6,2% 11B1 18% 72,4% 9,6% 11B2 17,9% 76,6% 5,5% Với kết quả như trên tôi nhận thấy nội dung của đề tài là phù hợp và cần thiết với học sinh và phù hợp với phương pháp dạy học mới theo hướng lấy học sinh làm trung tâm như giai đoạn hiện nay. * Qua áp dụng đề tài tôi nhận thấy có sự phân hoá rõ rệt đối tượng học sinh như sau: + Học sinh Khá - Giỏi: nắm vững, vận dụng tốt kiến thức, kỹ năng, học bài, làm bài rất tốt. + Học sinh trung bình: Nắm được kiến thức cơ bản, học bài làm bài tương đối tốt. + Một số học sinh chưa chăm học, chưa chú ý, lười suy nghĩ, kết quả học tạp chưa cao. II. Bài học kinh nghiệm: Để đổi mới phương pháp sử dụng thiết bị dạy học nói riêng và phương pháp dạy học Lịch sử nói chung ở trường THPT Thị xã Nghĩa Lộ thành công là một quá trình lâu dài, phức tạp và cần phải có thời gian: - Dạy và học theo hướng đổi mới cần phải có một số điều kiện trong đó quan trọng nhất là người giáo viên. Giáo viên phải có kiến thức chuyên môn, kỹ năng sư phạm, biết sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, biết định hướng học sinh theo mục tiêu giáo dục chung. - Giáo viên và học sinh phải sử dụng tối đa các tranh ảnh, lược đồ, bản đồ trong sách giáo khoa và của nhà trường. Nếu có thể giáo viên cho học sinh tham quan, làm bài tạp tại thực địa. - Tăng cường quá trình kiểm tra việc rèn luyện kỹ năng qua các giờ học có sử dụng đồ dùng dạy học, giúp các em có tư duy độc lập về bài học. - Có biện pháp phù hợp quan tâm đối với từng đối tượng học sinh ( khá, giỏi, trung bình, yếu, kém) để đảm bảo tới mức cao nhất học sinh nhận thức được kiến thức cơ bản của bài học, của cả khoá trình III. một số kiến nghị: Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới việc sử dụng đồ dùng dạy học nói riêng trong dạy học Lịch sử ở trường THPT là một yêu cầu cần thiết và cấp bách hiện nay, có đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh thì mới hoà nhập được trình độ phổ thông trong khu vực và trên thế giới. Để tạo điều kiện cho đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học môn Lịch sử nói riêng đạt được hiệu quả cao bản thân tôi có những kiến nghị như sau: Tăng cường cơ sở vật chất cho việc dạy và học môn Lịch sử. Đầu tư xây dựng phòng học bộ môn. Sử dụng tối đa việc học tại thực địa để học sinh biết về những di tích lịch sử, văn hoá của địa phương. Nghĩa Lộ, ngày 20 tháng 11 năm 2007 Người viết Hà Nguyễn Kiều Hoa. Tài liệu tham khảo Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử trung học phổ thông ( tài liệu tham khảo). Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phương pháp dạy học môn Lịch sử theo hướng tích cực . Nhà xuất bản Đại học sư phạm. Sách giáo khoa, sách giáo viên lớp 10,11 chương trình chuẩn. Nhà xuất bản Giáo dục. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 10 môn Lịch sử. Nhà xuất bản Giáo dục. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 11 môn Lịch sử. Nhà xuất bản Giáo dục. Tài liệu về chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử theo chương trình chuẩn. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mục lục Phần I: Mở đầu....1 I. Lý do chọn đề tài...1 II. Mục đích nghiên cứu2 III. Phạm vi nghiên cứu.3 IV. Phương pháp nghiên cứu.3 V. Nhiệm vụ của đề tài..3 Phần II: Nội dung...4 I. Cơ sở khoa học..4 1. Cơ sở lý luận.4 2. Cơ sở thực tiễn..4 II. Những vấn đề chung:...4 Mục đích của việc sử dụng thiết bị trong dạy học Lịch sử..5 Yêu cầu của việc sử dụng thiết bị dạy học..5 III. Kỹ năng khai thác tranh ảnh, lược đồ.7 Tranh ảnh.7 Lược đồ, bản đồ...8 IV. áp dụng cụ thể9 Khai thác tranh ảnh..9 Khai thác lược đồ, bản đồ..10 Phần III: Kết luận..14 I. Kết quả thử nghiệm, hiệu quả của đề tài..14 II. Bài học kinh nghiệm...15 III. Một số kiến nghị16 Tài liệu tham khảo17
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_khai_thac_do_dung_d.doc

