Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh lớp 9 qua bài 24 SGK Lịch sử
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nó được kết tinh từ hàng ngàn năm trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc. Thừa hưởng tư tưởng đạo đức của phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, Người đã để lại cho dân tộc ta một di sản to lớn về tư tưởng, đạo đức cao cả. Trong văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại…Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh lớp 9 qua bài 24 SGK Lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh lớp 9 qua bài 24 SGK Lịch sử

hiếu, tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử”. Quyền bình đẳng công dân thể hiện rất rõ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh khi mà cử tri ngoại thành Hà Nội yêu cầu Hồ Chí Minh không phải ứng cử trong kỳ tuyển cử đầu tiên. Đứng trước thiện tình của đồng bào, Hồ Chí Minh đã dùng những lời lẽ không chỉ khiêm nhường mà còn thể hiện quyền bình đẳng công dân trước pháp luật: “Tôi rất cảm động thấy toàn thể đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng quá yêu tôi... Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa”. 2.3.2. Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Xây dựng nhà nước của dân: Theo Điều 1 Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 32 – Hiếp pháp năm 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết” Xây dựng nhà nước do dân: Nhà nước theo quan điểm của Người là nhà nước được nhân dân lựa chọn và bầu ra những đại biểu có đủ phẩm chất và năng lực, được nhân dân giúp đỡ nhưng cũng chính do dân phê bình. Ngược lại nhà nước đó phải phục vụ nhân dân, nhà nước phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Xây dựng nhà nước vì dân: Quan điểm của Người là nhà nước phục vụ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi , thực sự trong sạch, cần kiệm, liêm chính. Người căn dặn: “Cán bộ là công bộc của dân, việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh”. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ, Đảng ta là đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả cán bộ từ trương ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. 2.3.3. Tình thương yêu con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Sau cách mạng tháng Tám, nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, trong đó phải kể đến nạn đói đang hoành hành. Bác nói: “Giặc đói, giặc dốt là bạn đồng hành với giặc ngoại xâm” và “Nước nhà đã giành được độc lập tự do mà dân vẫn còn đói nghèo cực khổ thì độc lập tự do không có ích gì”. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Người nói: “Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn nghĩ đến người đói khổ chúng ta không thể không động lòng. Vậy tôi đề nghị đồng bào cả nước mở một cuộc lạc quyên”. Hồ Chí Minh đã gương mẫu thực hiện “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó mỗi bữa một bơ để cứu dân nghèo”. Để hưởng ứng lời kêu gọi của Bác và noi gương người, ở khắp các địa phương trên cả nước, cuộc vận động quyên góp, lập các hũ gạo cứu đói, tổ chức “ngày đồng tâm”. Chỉ sau một thời gian ngắn đã quyên góp được đủ gạo cứu đói. 2.3.4. Giáo dục và bồi dưỡng thế hệ trẻ. Chính sách cai trị độc ác nhất của bon thực dân đã làm cho hơn 90% đồng bào chúng ta mù chữ. Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Bác nói “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, cho nên Bác động viên “chỉ cần 3 tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần Quốc ngữ...Vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống lại nạn mù chữ” Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường tháng 9 năm 1945, Bác viết : "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu". Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin và mong muốn các thế hệ học sinh không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở thành những người có ích cho Tổ quốc. 2.3.5. Đường lối ngoại giao hoà bình, giữ vững độc lập dân tộc. Sau khi giành độc lập, ở trong Nam, Thực dân Pháp đã nổ súng quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai và đêm 22 rạng 23 tháng 9 năm 1945. Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Bác nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”, chân lý đó là động lực để nhân dân Miền Bắc và nhân dân Miền Nam đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp. Ở Miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào nước ta, chúng đã sử dụng bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách phá hoại ta với dã tâm “Diệt cộng, cầm Hồ”. Để nhân nhượng quân Tưởng và bọn tay sai, ta đã nhường cho chúng 70 ghế trong quốc hội, 4 ghế bộ trưởng, cung cấp lương thực, thực phẩm, mục đích của chúng ta lúc bấy giờ không phải là đầu hàng quân giặc mà là ta đang dùng đường lối ngoại giao hòa bình để giữ vững độc lập dân tộc đang còn non trẻ Hiệp ước Hoa- Pháp ký kết buộc nhân dân ta phải lựa chọn con đường ngoại giao hòa hoãn với thực dân Pháp bằng việc kí Hiệp định sơ bộ và sau đó là bản tạm ước 14/9/1946, để đẩy 20 vạn quân Tưởng ra khỏi miền Bắc.Tuy nhiên dã tâm của Thực dân Pháp là quyết tâm chiếm bằng được nước ta nên ngày 19/12/1946 cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ. 2.4. Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào dạy bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân(1945- 1946) 2.4.1. Sử dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh làm tư liệu minh chứng. Vận dụng1: Dạy phần II- Bước đầu xây dựng chế độ mới: Giáo viên khai thác sự kiện ngày 6/1/1946: Bầu cử Quốc hội đầu tiên. Giáo viên sử dụng tư liệu: 2.3.2. Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Học sinh sẽ nhận thức được đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc nhân dân ta được tham gia bầu cử. Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó đã đập tan âm mưu chia rẽ, lật đổ chính quyền và xâm lược của bọn đế quốc, tay sai. Biểu lộ sức mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của dân tộc. Tạo cơ sở pháp lý vững chắc và góp phần nâng cao uy tín của nước Việt Nam trên trường quốc tế. Vận dụng 2: Dạy phần III- Diệt giặc đói, giặc dốt và giải quyết khó khăn về tài chính. Giáo viên khai thác kênh hình 42: Nhân dân góp gạo chống “giặc đói”. Giáo viên sử dụng tư liệu: 2.3.3.Tình thương yêu con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của giáo viên. Học sinh sẽ hiểu được chính sách cấu kết của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã dẫn đến nạn đói nghiệm trọng, làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói vào cuối năm 1944 đầu năm 1945. Nhờ các biện pháp sáng suốt của chủ tịch Hồ Chí Minh đã dấy lên phong trào đồng cam cộng khổ, lập các hũ gạo cứu đói, tổ chức “ngày đồng tâm” để có thêm gạo cứu đói..., chia sẻ khó khăn của toàn dân tộc. Vì vậy chỉ trong thời gian ngắn nạn đói cơ bản bị đẩy lùi. Từ đó bồi dưỡng học sinh truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Vận dụng 3: Dạy phần III- Diệt giặc đói, giặc dốt và giải quyết khó khăn về tài chính: Giáo viên khai thác kênh hình 43: lớp bình dân học vụ. Giáo viên sử dụng tư liệu: 2.3.4. Giáo dục và bồi dưỡng thế hệ trẻ. Học sinh nhận thức được tình trạng mù chữ nước ta sau cách mạng tháng Tám và những tác hại của nó đối với sự phát triển của đất nước. Giáo viên chiếu kết hợp đọc đoạn thư trên màn hình và yêu cầu 1 học sinh đọc cho cả lớp nghe "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu". Hướng các em nhận thức tầm nhìn xa của chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục đối với sự hưng thịnh của đất nước, khẳng định niềm tin tưởng và hy vọng đối với thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc Học sinh thấy được ngày nay các em hạnh phúc khi được học tập trong điều kiện hòa bình, điều kiện vật chất tương đối đầy đủ. Bởi vậy, các em học sinh phải có trách nhiệm bản thân tu dưỡng đạo đức, chăm chỉ học tập để trở thành nhữngcông dân tốt, có ích, cống hiến sức lực phục vụ đất nước XHCN, đưa nước ta phát triển ngang tầm khu vực và thế giới. Vận dụng 4: Dạy phần VI- Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và tạm ước Việt- Pháp (14-9-1946). Giáo viên khai thác sự kiện ký kết Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946. Giáo viên sử dụng tư liệu: 2.3.5. Đường lối ngoại giao hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc. Học sinh sẽ hiểu được việc Hồ Chí Minh chủ động ký với thực dân Pháp bản Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và bản tạm ước 14/9/1946, không phải là hành động đầu hàng mà chính là sự vận dụng sắc bén chủ nghĩa Mác – Lênin về sách lược “Hòa để tiến” trong cách mạng. Từ đó thấy được sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn, sáng suốt của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa cứng rắn về nguyên tắc vừa mềm dẻo về sách lược trong đấu tranh ngoại giao. Chúng ta đã đập tan âm mưu của thực dân Pháp trong việc câu kết với Tưởng Giới Thạch để chống lại cách mạng nước ta, 20 vạn quân Tưởng buộc phải rút về nước, kéo theo đó là bọn tay sai mất chỗ dựa. Ta đã tránh được một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù nguy hiểm. Góp phần nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên trường quốc tế, thể hiện thiện chí hoà bình của nhân dân ta. Từ bài học, bồi dưỡng cho các em miền tin và sự kính trọng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn ngày nay, đất nước đang có nhiều chuyển biến tích cực. 2.4.2. Một số kết quả đạt được. Qua bài học, các em nhận thức được những khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng Tám trong tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước tháo gỡ những khó khăn đó tạo thế vững vàng để nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Bài học trở nên không nhàm chán, gò bó đối với các em học sinh, phần lớn các em hứng thú trong học tập xây dựng bài, có thể vận dụng kiến thức đã học để giải quyết tốt những câu hỏi mang tính cơ bản, thậm chí là những câu hỏi khó liên quan đến kiến thức của bài. Các em đều rút ra được những bài học kinh nghiệm quan trọng cho bản thân sau khi học song bài. Đồng thời, nâng cao nhận thức, hành động trong ứng xử cuộc sống. Đặc biệt,các em đều thể hiện sự tôn kính đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong quá trình giảng dạy, tôi tiến hành thực nghiệm ở lớp 9B và lấy lớp 9A làm đối chứng. Cụ thể: Lớp Sĩ số Điểm 0 - 2,75 3 - 4.75 5- 6.75 7.0 - 8.75 9.0 -10 SL % SL % SL % SL % SL % 9B 30 hs 0 0 0 0 15 50.0 10 33.3 05 16.7 9A 30 hs 01 3.3 06 20.0 13 43.4 07 23.3 03 10.0 Như vậy, kết quả học tập của học sinh lớp 9B cao hơn so với lớp 9A, ý thức học tập và rèn luyện đạo đức, tác phong công việc của các em có chuyển biến rõ rệt, những biểu hiện như nói tục, đi học muộn, không làm bài tập ở nhàđang được các em khắc phục nhanh chóng. Cuối năm, riêng đối với học sinh khối 9 đạt 98,3% điểm trung bình trở lên. Chính vì vậy, việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực sự là một bước tiến mới trong bộ môn lịch sử nói riêng và trong tất cả các môn học của nhà trường. 3. KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT 3.1. Kết luận: Trong công cuộc hội nhập toàn cầu hiện nay thì vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ đang được quan tâm và tạo điều kiện ở nhiều quốc gia. Ở nước ta, việc giáo dục cho thế hệ trẻ một bản lĩnh chính trị vững vàng, một nhân cách sống cao đẹp là một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, không chỉ có nhà trường, gia đình, xã hội mà của cả các cấp chính quyền, các nhà quản lý xã hội...Trong đó việc giáo dục tư tưởng, học tập và làm theo “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là nhiệm trọng tâm trong toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay. Với kinh nghiệm đứng trên bục giảng, tôi cho rằng cần phải tích hợp và lồng ghép tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho các em học sinh, dần dần hình thành những đức tính tốt đẹp để các em trở thành những người có đủ đức, đủ tài cống hiến sức mình cho công cuộc phát triển và hội nhập của đất nước. Qua việc thực hiện, bản thân tôi đã vui mừng khi các tiết dạy lịch sử của mình trở nên sinh động lôi cuốn học sinh, các em trở nên có hứng thú học tập đối với bộ môn lịch sử. Đặc biệt, hầu hết các em tò mò tìm hiểu về cuộc đời hoạt động gian khổ và phẩm chất cao đẹp của Bác. Từ đó giáo dục học sinh kính yêu Bác Hồ và ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức làm theo lời Bác dạy 3.2. Đề xuất: Trước thực trạng dạy và học môn Lịch sử hiện nay, thì việc đổi mới về phương pháp dạy học, trau dồi về trình độ chuyên môn, góp phần thúc đẩy chất lượng bộ môn, nâng cao vị thế của môn Lịch sử trong hệ thống giáo dục phổ thông là thật sự cần thiết. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đề xuất với sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa, phòng giáo dục và đào tạo Triệu Sơn thường xuyên tổ chức những buổi trao đổi về kinh nghiệm dạy học, đặc biệt là kinh nghiệm lồng ghép tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào giảng dạy. Qua đó giáo viên có thể đóng góp những ý kiến hay cho đồng nghiệp. Do những hạn chế về tài liệu, thời gian, cũng như năng lực cá nhân, đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót, hoặc chưa nhìn nhận hết các góc cạnh của vấn đề. Rất mong sự góp ý của đồng nghiệp và bạn đọc. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 26 tháng 5 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Tác giả Lê Sỹ Kỳ DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN Họ và tên tác giả: Lê Sỹ Kỳ Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Thọ Tân TT Tên đề tài SKKN Cấp đánh giá xếp loại (Ngành GD cấp huyện/tỉnh; Tỉnh...) Kết quả đánh giá xếp loại (A, B, hoặc C) Năm học đánh giá xếp loại Một vài kinh nghiệm sử dụng bài tập trong dạy học môn lịch sử ở THCS để nâng cao hiệu quả Phòng GD và ĐT Huyện Triệu Sơn B 2016 Một vài kinh nghiệm sử dụng bài tập trong dạy học môn lịch sử ở THCS để nâng cao hiệu quả Sở GD và ĐT Tỉnh Thanh Hóa B 2016 Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh lớp 9 qua bài 24 SGK lịch sử Phòng GD và ĐT Huyện Triệu Sơn A 2018 ... * Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào Ngành cho đến thời điểm hiện tại. ---------------------------------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh 2. Sách giáo khoa lịch sử 9. NXB Giáo dục 2017 3. Các chuyên đề về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh(Nxb chính trị quốc gia) 4. Các tài liệu liên quan đến cuộc đời hoạt động của Bác 5. Phương pháp dạy học môn lịch sử. Phan Ngọc Liên chủ biên, NXB Giáo dục 1997 6. Những vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử cấp THCS. Vụ Trung học phổ thông 2013 7. Đại cương lịch sử Việt nam tập III. NXB Giáo dục 2003 8. Từ điển tri thức lịch sử. NXB đại học quốc gia hà nội 2003 9. Tác phẩm văn của chủ tịch Hồ Chí Minh( Hà Minh Đức)
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_giao_duc_tu_tuong_dao_duc.doc
bia.doc