Sáng kiến kinh nghiệm Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

Công tác giáo dục nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các trường THPT trong cả nước. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi có tác động tích cực đến quá trình dạy và học, tạo động lực, làm nòng cốt trong phong trào thi đua dạy tốt - học tốt. Kích thích ý chí vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức và góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh, hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

Bộ môn Lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức về Lịch sử dân tộc và thế giới, góp phần tích cực vào việc “phát triển toàn diện cho học sinh về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và óc sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân”.

Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải tìm được những phương pháp dạy - học phù hợp. Trong luật giáo dục (2005) đã nhấn mạnh yêu cầu đối với phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng là “phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.

doc 14 trang SKKN Lịch Sử 15/10/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

Sáng kiến kinh nghiệm Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
anh chính trị đóng vai trò chủ yếu, quyết định. Còn lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang đóng vai trò nòng cốt. Trong những đòn quyết định đánh vào cơ quan đầu não địch ở Hà Nội và các đô thị, lực lượng vũ trang đã nhanh chóng hỗ trợ các lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy đè bẹp sức phản kháng của kẻ thù, giành chính quyền mở đường cho thắng lợi trọn vẹn về tay nhân dân.
1.5. Các tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam từ 1930 - 1945. Đây là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thành công của cách mạng Việt Nam là không ngừng củng cố và tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trên cơ sở khối liên minh công – nông, Đảng mở rộng đội ngũ cách mạng đến các giai cấp và tầng lớp khác có xu hướng dân tộc và dân chủ, thực hiện chính sách mặt trận dân tộc thống nhất – chính sách đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong cách mạng nước ta.
Nắm vững quan điểm này, từ cuối năm 1930 khi phong trào cách mạng 1930 – 1931 trở nên quyết liệt, Đảng ra chỉ thị về vấn đề “Hội phản đế đồng minh” trong đó nêu lên tư tưởng chiến lược đúng đắn: đoàn kết toàn dân thành một tổ chức có lực lượng tham gia rộng rãi, lấy công – nông làm động lực chính, là một trong những điều kiện quyết định thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc. Trải qua các thời kì cách mạng 1936 – 1939, 1939 – 1945, Mặt trận dân tộc thống nhất đề có sự thay đổi để phù hợp với tình hình thực tiễn cách mạng.
Vì thế, khi lựa chọn nội dung trên giáo viên cần hệ thống hoá kiến thức bằng việc lập bảng thống kê theo yêu cầu sau: Tên Mặt trận - Thời gian thành lập - Chủ trương cơ bản - Vai trò của mặt trận. Qua đó, học sinh phân tích, đánh giá đúng vai trò của từng mặt trận, đặc biệt là Mặt trận Việt Minh đối với thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945.
1.6. Vấn đề khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền năm 1945:Chủ trương khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền được Đảng nhấn mạnh trong Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), coi chuẩn bị vũ trang là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Hội nghị nhấn mạnh: khởi nghĩa vũ trang muốn giành được thắng lợi phải có đủ điều kiện khách quan và chủ quan, nổ ra đúng thời cơ. Về nguyên tắc khởi nghĩa, Hội nghị nêu rõ: Với lực lượng đã chuẩn bị, phát động quần chúng đứng lên khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận để rồi tiến tới tổng khởi nghĩa trong phạm vi toàn quốc.
Cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở Việt Nam năm 1945, bắt đầu từ sau khi Đảng có chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước với khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở một số địa phương (từ 9/3/1945 đến 13/8/1945). Kết thúc bằng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trong vòng 15 ngày (từ 14/8/1945 đến 30/8/1945).
Cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền năm 1945 mang nhiều đặc điểm nổi bật và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quí báu được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ sau này.
1.7. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đối với việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (1930) và tổ chức lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc (chủ yếu từ 1941 đên 1945). Đây cũng là vấn đề khó, đòi hỏi khả năng tổng hợp, phân tích, đánh giá có sự phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Từ đó, người giáo viên định hướng giúp học sinh nhận thức rõ những vai trò to lớn của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ 1930 – 1945.
- Đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 1930: sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn – con đường cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập Đảng của giai cấp vô sản; Là người chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản (6/1/1930) đưa đến sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; Là người soạn thảo Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt vạch ra đường lối chiến lược cơ bản cho cách mạng Việt Nam.
- Đối với cách mạng tháng Tám: Sau nhiều năm bôn ba ở hải ngoại, ngày 28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước, tại Pắcbó – Cao Bằng, Người đã tổ chức và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (từ 10 – 19/5/1941) để hoàn chỉnh chủ trương chỉ đạo chiến lược cách mạng;Sau Hội nghị 8, Người đã triển khai lãnh đạo thực hiện nghị quyết: trực tiếp xây dựng căn cứ cách mạng, mở rộng quan hệ đối ngoại với Trung Quốc, tranh thủ sự ủng hộ của đồng minh chống Nhật; Sáng suốt dự đoán thời cơ cách mạng và khi thời cơ đến Người cùng Trung ương Đảng chủ động lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa vũ trang đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành chính quyền với tinh thần “dù phải hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường sơn chúng ta cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”; Trực tiếp soạn thảo và đọc Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945) tuyên bố các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và tuyên bố về sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Có thể thấy, Hồ Chí Minh là linh hồn của cách mạng tháng Tám, của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. 
1.8. Mối quan hệ tác động của tình hình thế giới với cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945: Ở giai đoạn lịch sử này học sinh cần nắm vững những ảnh hưởng của tình hình thế giới đến cách mạng Việt Nam như: Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933; Sự ra đời của chủ nghĩa phát xít (đứng đầu là Đức – Italia – Nhật Bản) đe doạ hoà bình, an ninh thế giơi và những điều chỉnh đường lối chiến lược cách mạng thế giới tại Đại hội lần thứ 7 (7/1935) của Quốc tế Cộng sản; Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ từ tháng 9/1939 đến tháng 6/1941; Những thắng lợi của quân đội Đồng minh trong việc tiêu diệt phát xít năm 1945.Những sự kiện lịch sử thế giới trên đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến phong trào cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930 – 1945.
1.9. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập (2/9/1945): Yêu cầu học sinh hệ thống kiến thức trên cơ sở sự kiện cơ bản như: sự thành lập nước VNDCCH; Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn độc lập; Ý nghĩa việc thành lập nước VNDCCH
2. PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP
Khi tiến hành bài học lịch sử, việc sử dụng đa dạng và kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lí các phương pháp, các cách dạy phù hợp với từng nội dung lịch sử là điều cần thiết. Song, ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh tới phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy một vấn đề cụ thể đã được xác định trong giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1930 – 1945.
Trước hết, phương pháp dạy học nêu vấn đề : đây là nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều phương pháp dạy học. Nó được vận dụng trong tất cả các khâu như trình bày nêu vấn đề, tình huống có vấn đề và bài tập, câu hỏi nêu vấn đề. Trong đó, khi lựa chọn vấn đề dạy phải đảm bảo các yêu cầu về tính khoa học, tính Đảng, tính hình ảnh và ngôn ngữ trong sáng. Song, việc lựa các vấn đề dạy trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể phải có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển tư duy độc lập của học sinh. Khi dạy vấn đề chuyên sâu không chỉ củng cố hệ thống hoá kiến thức cơ bản đã học, mà còn giúp học sinh tìm ra bản chất của sự kiện, hiện tượng, phân tích, đánh giá và độc lập rút ra các kết luận cần thiết trên cơ sở trình bày của thày, hình thành kĩ năng, kĩ xảo trong học tập.
Ví dụ, khi dạy vấn đề “Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước năm 1945”, giáo viên đưa ra tình huống có vấn đề sau: Sử gia tư sản cho rằng cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thành công nhanh chóng là do “ăn may”, nhưng nhiều người lại khẳng định đó là quá trình chuẩn bị lâu dài kết hợp với nghệ thuật chớp thời cơ của Đảng ta. Theo em, ý kiến nào đúng? Vì sao. -> học sinh phải theo dõi bài, suy nghĩ, phân tích, rút ra ý kiến đúng.
Thứ hai, Trao đổi, đàm thoại: đây là phương pháp cần thiết và phải làm thường xuyên trong việc thực hiện ôn tập, củng cố kiến thức dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Có thể vận dụng nhiều dạng trao đổi, đàm thoại tuỳ vào nội dung, vấn đề cụ thể: Trao đổi tái hiện nhằm gợi lại kiến thức cũ để tiếp thu kiến thức mới; trao đổi phân tích, khái quát hoá nhằm hướng học sinh tìm ra bản chất của sự kiện lịch sử; trao đổi tìm tòi phát hiện nhằm tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh khi ôn tập tổng kết. Việc trao đổi đàm thoại giữa các nhóm học tập cùng một nội dung lịch sử để đánh giá khả năng tư duy, mức độ sáng tạo của từng học sinh, rèn luyện tính kiên nhẫn trong học tập, khả năng giao tiếptừ đó, phân loại và lựa chọn chính xác những học sinh giỏi nhất tham gia vào đội tuyển.
Thứ ba, sử dụng bài tập lịch sử bồi dưỡng, ôn tập cho học sinh giỏi. Giáo viên sau khi giảng dạy một giai đoạn lịch sử, một vấn đề chuyên sâu cần biên soạn các câu hỏi ôn tập giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức cơ bản, nâng cao khả năng độc lập tư duy, rèn luyện kĩ năng làm bài.
Việc xây dựng bài tập, câu hỏi ôn tập trong dạy học lịch sử nói chung không thể là việc làm tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa mà phải xuất phát từ những căn cứ khoa học và phải tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản như:
+ Nội dung bài tập phải gắn với chương trình, sách giáo khoa.
+ Đảm bảo tính hệ thống trong việc xác định nội dung kiến thức cơ bản.
+ Đảm bảo tính đa dạng, toàn diện trong việc xác định kiến thức lịch sử ở nhiều mặt khác nhau của đời sống xã hội.
+ Nội dung bài tập lịch sử phải phù hợp với trình độ nhận thức, phát huy trí thông minh sáng tạo, có tác dụng giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức của học sinh.
+ Bài tập lịch sử cần chính xác về nội dung và chuẩn mực về hình thức.
Sau đây là một số dạng bài tập, câu hỏi tự luận (tham khảo) ôn tập cho học sinh giỏi khi dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1930 – 1945.
Câu 1. Nêu những nét chung và những nét khác nhau của thời kỳ cách mạng 1930 – 1945.
 Câu 2. Đảng ta đã giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ như thế nào trong giai đoạn 1930 – 1945? 
Câu 3. Các hình thức tổ chức, vai trò của mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng ta chủ trương và thành lập đối với sự nghiệp cách mạng VN từ khi Đảng ra đời cho đến năm 1941.
Câu 4. Chứng minh rằng: Trong giai đoạn lịch sử 1930 – 1945, mỗi khi hoàn cảnh lịch sử thay đổi thì Đảng ta đều đề ra những chủ trương đúng đắn, kịp thời để lãnh đạo cách mạng.
 Câu 5. Vì sao nói, phong trào cách mạng 1930 – 1931 là cuộc đấu tranh với quy mô lớn, mang tính triệt để và diễn ra dưới nhiều hình thức.
Câu 6. Trên cơ sở phân tích đối tượng, mục tiêu, ý nghĩa của phong trào dân chủ 1936 – 1939, hãy nhận xét về tính chất của phong trào đó? 
Câu 7. Em hãy nêu những sự kiện tiêu biểu trong tiến trình lịch sử Việt Nam từ 1930 – 1945 và phân tích 1 sự kiện tiêu biểu nhất có ảnh hưởng đến giai đoạn lịch sử đó và những giai đoạn tiếp theo.
 Câu 8. Vì sao trong 3 năm liên tiếp 1939, 1940, 1941 Đảng Cộng sản Đông Dương đều triệu tập hội nghị? Vấn đề quan trọng nhất được các hội nghị đề cập là gì?
Câu 9. Thông qua các nội dung văn kiện: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) và Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ VIII (1941), em hãy trình bày quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về việc giải quyết nhiệm vụ dân tộc và giai cấp trong Cách mạng Việt Nam.
 Câu 10. Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam có phải là cuộc cách mạng bạo lực không? Vì sao.
Thứ tư, tổ chức kiểm tra đánh giá học sinh, chủ yếu dưới hình thức kiểm tra miệng và kiểm tra viết.
+ Kiểm tra miệng kết hợp trong giờ dạy để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức và khả năng phản xạ nhanh; khả năng tư duy sáng tạo trong qúa trình nghe giảng; rèn luyện kĩ năng thuyết trình các sự kiện lịch sử...
+ Kiểm tra bài viết tại lớp, đây là hình thức bắt buộc vì một vấn đề chuyên sâu đòi hỏi học sinh phải hình thành được kĩ năng làm bài thi, đó là: đọc và hiểu đề thi; vạch đề cương sơ lược bài làm; nắm vững nội dung lịch sử (là yêu cầu quan trọng bậc nhất để đạt được kết quả thi cao); lựa chọn phương pháp học tập và làm bài phù hợp (đòi hỏi sự thông minh, phải có tư duy, phải biết tổng hợp các vấn đề, biết giải thích, đánh giá sự kiện hiện tượng lịch sử, lập luận logíc, văn phong rõ ràng trong sáng...).
3. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Như vậy, từ thực tế trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi tại trường THPT, khi giảng dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1930 - 1945 tôi thường lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập (như đã trình bày) cùng việc kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin đã giúp tôi tạo ra được những tiết học sôi nổi, học sinh chăm chỉ học tập, say mê nghiên cứu, tự giác rèn luyện cách viết bài dưới sự hướng dẫn của giáo viên... Từ sự đam mê, kết quả học tập tốt, học sinh yêu quý môn học Lịch sử hơn và sẽ giúp giáo viên dễ dàng động viên, khích lệ học sinh tham gia vào các đội tuyển HSG... Chính vì thế trong những năm học gần đây, đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử mà tôi giảng dạy luôn đạt được thành tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia. 
C - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
 Trong nhiều năm qua, do điều kiện khách quan và chủ quan chi phối mà chất lượng bộ môn Lịch sử có nhiều biểu hiện giảm sút. Để nâng cao chất lượng dạy - học môn Lịch sử và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử là một việc làm không dễ, nó đòi hỏi nhiều vấn đề như phải có những học sinh thực sự say mê, có hứng thú học tập, phải có những giáo viên có năng lực, yêu nghề, tâm huyết với công tác giảng dạy, phải có những cơ chế phù hợp đảm bảo quyền lợi của học sinh và giáo viên ... 
 Là người trực tiếp giảng dạy, tôi hiểu rằng bản thân cũng luôn cần phải cố gắng hoàn thiện về phẩm chất và năng lực chuyên môn, tâm huyết với công việc, tạo mọi điều kiện và yêu thương học trò ... bởi phẩm chất, uy tín và năng lực của người giáo viên sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập và rèn luyện của học sinh. Một trong những yếu tố cần và đủ để tạo nên sự thành công trong đào tạo học sinh giỏi chính là “Thầy giỏi”. Dixecvec đã từng nói “Người thầy bình thường mang chân lí đến cho trò còn người thầy giỏi dạy cho trò cách đi tìm chân lí”.
II. Kiến nghị 
 - Hàng năm có chương trình đào tạo cho giáo viên dạy đội tuyển HSG.
 - Tổ chuyên môn xây dựng ngân hàng đề thi HSG cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia để mọi thành viên có thể học tập lẫn nhau và cập nhật thông tin.
 - Phổ biến các sáng kiến kinh nghiệm cho giáo viên làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. 
 Như vậy, việc lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi môn Lịch sử là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự cố gắng nỗ lực của cả giáo viên và học sinh. Trên đây chỉ là một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn giảng dạy, là sự nhận thức chủ quan của tôi khi lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi trong giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1930 - 1945. Vì thế, để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, đem lại một chuẩn mực nhất định làm cơ sở cho các giai đoạn lịch sử khác, đòi hỏi tôi phải cố gắng nỗ lực phấn đấu, học tập nhiều hơn nữa ở các đồng nghiệp trong trường cũng như trong ngành giáo dục của nước nhà ./. 
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hoá, ngày 20 tháng 05 năm 2016
 ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
 Nghiêm Thị Huyền

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_lua_chon_noi_dung_va_phuong_phap_on_ta.doc