Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo việc thiết kế và tổ chức các trò chơi trong dạy học Lịch sử lớp 4 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
Đổi mới giáo dục đã được Đảng và nhà nước khẳng định là vai trò quan trọng cấp thiết trong hệ thống “Đổi mới sự nghiệp giáo dục”, là nền tảng, là động lực thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước để Việt Nam từng bước vững vàng khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Như vậy, để thực hiện quá trình đổi mới giáo dục không chỉ đối mới về nội dung chương trình sách giáo khoa mà còn phải đối mới về cả phương pháp dạy- học. Đây là hai vấn đề có mối liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục trong giai đoạn mới. Qua phân môn Lịch sử các em được hiểu sâu hiểu kĩ về quá trình và từng thời kì xây dựng đấu tranh và gìn giữ đất nước. Có thể nói rằng học lịch sử có tác dụng rất lớn khi học các môn khác hay nói cách khác học lịch sử là điểm tựa, là nền tảng cho các môn học khác như Địa Lí, Tiếng Việt ....
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo việc thiết kế và tổ chức các trò chơi trong dạy học Lịch sử lớp 4 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh

học khi củng cố kiến thức). 1 2 3 4 5 6 7 Câu hỏi 1: Nhà Trần thay thế cho triều đại nhà nào? Câu hỏi 2: Nhà Trần thành lập năm nào? Câu hỏi 3: Tên một chức quan trông coi việc đắp đê. Câu hỏi 4: Thời Trần quy định con trai từ bao nhiêu tuổi trở lên phải dành một số ngày tham gia đắp đê? Câu hỏi 5: Nghề chính của nhân dân ta cuối thời Trần là nghề gì? Câu hỏi 6: Tên nước ta dưới triều Trần là gì? Câu hỏi 7: Kinh đô dưới thời Trần ở đâu? - Tác dụng của trò chơi này: Học sinh có thể chọn bất kỳ ô chữ nào, không nhất thiết máy móc chọn lần lượt các ô chữ. Trò chơi này có thể tổ chức chơi cá nhân, nhóm hoặc cũng có thể chơi cả lớp bằng cách học sinh viết câu trả lời vào bảng con. Ví dụ 3. Bài 1: Nước Văn Lang (Sử dụng công nghệ thông tin) (Lịch sử lớp 4- trang 11) Giáo viên chiếu hình 1: Học sinh đây là lược đồ Bắc Bộ, Trung Bộ ngày nay. Khoảng 700 năm trước công nguyên, ở khu vưc Sông Hồng, Sông Mã và Sông Cả, nơi người lạc Việt sinh sống, nước Văn Lang ra đời. Kinh đô đặt ở Phong Châu (Phú Thọ) Giáo viên chiếu hình 2: Đứng đầu nhà nưôc có vua, gọi là Hùng Vương. Lăng vua Hùng ở Phú Thọ. Giáo viên chiếu hình 3,4,5: Đây là những đồ dùng như lưỡi cày, lưỡi xéo muôi (bằng đồng ) Giáo viên chiếu hình 6,7,10: Đây là các hình vẽ trang trí trên trống đồng; Trò chơi này thường tổ chức cuối giờ học hướng dẫn viên vừa chỉ vừa thuyết minh. Cả lớp nhớ lại buổi đầu dựng nước của dân tộc ta. Đây cùng chính là nhằm cũng cố bài học. Ví dụ 4. Củng cố kiến thức về thời gian, nhân vật và sự kiện lịch sử về chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938 tổ chức trò chơi " Ô chữ kì diệu" - Chuẩn bị: Các ô chữ, các câu hỏi và đáp án trên giáo án điện tử. - Cách tiến hành: + Ô chữ gồm 8 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc. Cách chơi như sau: Cả lớp chia thành 4 đội chơi. Các đội chơi lần lượt chọn từ hàng ngang, giáo viên sẽ đọc gợi ý về các từ hàng ngang, đội chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời. Nếu sai hoặc sau 30 giây không có câu trả lời thì đội khác được quyền đoán. Mỗi từ hàng ngang được 10 điểm, từ hàng dọc được 30 điểm. Trò chơi kết thúc khi có đội tìm ra từ hàng dọc. Đội nào có điểm cao hơn thì đội đó thắng. - Nội dung ô chữ và gợi ý cho từng ô chữ: 1. Hậu quả mà quân nam Hán phải nhận khi sang xâm lược nước ta năm 938.( thất bại) 2. Nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô.( Cổ Loa) 3. Vũ khí làm thủng thuyền của giặc.( cọc gỗ) 4. Ngô Quyền đã dựa vào hiện tượng thiên nhiên này để đánh giặc.(thuỷ triều) 5. Quê của Ngô Quyền.(Đường Lâm) 6. Quân nam Hán đến từ phương này.(Bắc) 7. Người lãnh đạo trận Bạch Đằng.(Ngô Quyền) 8. Tướng giặc tử trận ở Bạch Đằng.(Hoằng Tháo) - Tác dụng của trò chơi này: Thiết kế trò chơi này trên máy chiếu sẽ không mất nhiều thời gian, cả âm thanh như tiếng vỗ tay khen khi học sinh trả lời đúng. Học sinh có thể tự lựa chọn câu hỏi. Ví dụ 5. Giúp học sinh củng cố về thời gian, nhân vật lịch sử, giáo viên sử dụng trò chơi: “ Đố vui”, giáo viên chuẩn bị các câu đố, lời giải. - Cách tiến hành: Cả lớp cùng tham gia; cuối giờ học giáo viên nêu các câu thơ, nếu học sinh nào nhanh giành quyền trả lời đúng được thưởng 1 bông hoa xuất sắc. Câu hỏi: Ai quê ở tận Hà Tây Cờ lâu tập trận đố bạn là ai? Ai người áo vải Tây Sơn Đem quân dẹp loạn quân Thanh bạo tàn ? d. Ải nào núi đá giăng giăng Năm xưa tướng giặc liễu thăng rụng đầu. - Tác dụng của trò chơi này: trò chơi này có thể tổ chức bất cứ thời điểm nào trong giờ học (đầu giờ, cuối giờ hay giữa giờ, không tốn nhiều công sức để thiết kế trò chơi. Ví dụ 6. Khi củng cố kiến thức lịch sử của một chương hay học kỳ 1, cuối năm học, tổ chức trò chơi “ Rung chuông vàng” cho cả lớp trong giờ ôn tập hay hoạt động ngoại khóa. - Chuẩn bị: Hệ thống câu hỏi và đáp án - Cách chơi: giáo viên đưa ra câu hỏi cho các đội, đại diện thành viên trong đội lần lượt viết nhanh câu trả lời vào bảng và giơ lên sau 10 giây suy nghĩ. Câu 1: chùa Một Cột được xây dựng vào năm nào ? (1904) Câu 2: Khởi nghĩa Hai BảTưng diễn ra vào năm nào ? ( năm 40) Câu 3: Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi xưng vương là gì? (Đinh Tiên Hoàng) Câu 4: Ai là người chỉ huy cuộc kháng chiến chóng quân Tống xâm lược lần thứ hai năm 1076? (Lý Thường Kiệt) Câu 5. Trường đại học đầu tiên ở nước ta? (Quốc Tử Giám) Câu 6. Sau khi đánh đuổi quân Thanh vua Quang Trung ban bố chiếu gì? (khuyến nông) Câu 7. Huế được công nhận là di sản văn hóa thế giới vào thời gian nào? (11-12-1993) Câu 8. Bộ luật Hồng Đức do ai sáng lập? (Lê Thánh Tông) Tác dụng của trò chơi này: trong một khoảng thời gian ngắn giáo viên có thể tổ chức cho nhiều học sinh cùng chơi để ôn lại kiến thứ Lịch sử. Ví dụ 7. Khi củng cố cho học sinh về diễn biến cuộc kháng chiến chống quân Tống. Giáo viên có thể tổ chức trò chơi để học sinh nhớ bài mà không gò bó, khô khan qua trò chơi “ Điền đúng, điền nhanh” Giáo viên chuẩn bị cho: - Học sinh: 2 phiếu lớn, bút dạ. - Giáo viên: nội dung trò chơi và đáp án (chiếu trên màn hình) - Cách chơi: chọn mỗi đội 7 em, các em lần lượt lên, mỗi em được điền 1 từ trong thời gian 1 phút cho cả đội. Đội nào xong trước và đúng nhiều hơn đội đó thắng cuộc. Nội dung trò chơi: Năm..............giặc....................kéo quân sang xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của................quân dân ta đã giành chiến thắng vẻ vang ở trận...............và trận..............Cuộc kháng chiến chống quân............... nền..............của dân tộc được giữ vững. (Tống, độc lập, Chi Lăng, Lê Hoàn, 981, Bạch Đằng, thắng, lợi) Ví dụ 8. Để giúp học sinh nhớ được tên, một số đặc điểm và tính cách tiêu biểu của các nhân vật lịch sử, cụ thể tổ chức trò chơi “ Đoán tên nhân vật” Chuẩn bị: hình ảnh 1 nhân vật lịch sử, các mảnh ghép có các câu hỏi Cách chơi: tổ chức cho cả lớp cùng chơi hoặc chơi theo nhóm Chia ảnh nhân vật thành 6 mảnh ghép ứng với 6 câu hỏi, học sinh tự lựa chọn mảnh ghép, giáo viên đọc câu hỏi và sau thời gian suy nghĩ là 30 giây; học sinh phải đưa ra câu trả lời. Nếu trả lời đúng một câu hỏi ở một mảnh ghép các em sẽ được 1 bông hoa đẹp. Sau 6 mảnh ghép học sinh phải đoán được tên nhân vật đó thì số bông hoa ở 6 mảnh ghép mới được chấp nhận. Nếu đoán được tên nhân vật lịch sử đó sẽ ghi được 3 bông hoa đẹp. Học sinh hay nhóm nào được nhiều điểm hơn sẽ giành phần thắng cuộc. Ví dụ 9. Trò chơi “Bảy sắc cầu vồng ”, “đi tìm sự kiện ” Trò chơi biến từ trò chơi trong chương trình “Bảy sắc cầu vồng”.Trò chơi này đòi hỏi học sinh huy động vốn kiến thức đã học để xử lí, phân tích nhanh những thông tin mà giáo viên đưa ra để tìm ra câu trả lời đúng, rèn luyện cho học sinh sự nhanh nhạy của tư duy qua đó học sinh nhớ được các số liệu ,sự kiện, nhân vật lịch sử một cách chính xác và bền lâu. Loại trò chơi này thường được sử dụng các bài ôn tập hoặc các bài củng cố kiến thức của một giai đoạn lịch sử nhất định. Cách thức sử dụng trò chơi: Giáo viên: Cử mỗi tổ một học sinh đại diện tham gia trò chơi. Có thể thay hình thức bấm chuông bằng cách rung lắc (phát ra tín hiệu nhanh thì người đó dành quyền trả lời). Chuẩn bị các mốc lịch sử, ứng với mỗi mốc là các sự kiện hoặc nhân vật lịch sử tiêu biểu. Khi giáo viên nêu các mốc thời gian, học sinh nhanh chóng xác định đúng sự kiện hoặc nhân vật lich sử đúng với mốc đó (giáo viên nêu nhanh dứt khoát ) Để lắng đọng mãi trong tâm trí trẻ và làm nên nguồn sức mạnh thôi thúc trẻ sống tốt hơn, học tốt hơn và phát triển tốt hơn, con đường đi đến thành công là tổ chức tốt các trò chơi học tập. Với sức mạnh như vậy trò chơi luôn là một phương tiện dạy học, con đường cung cấp tri thức và giáo dục phù hợp nhất với đặc điểm mong muốn của học sinh tiểu học. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp mà tôi nêu ra trong đề tài có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau và không thể tách rời nhau. Giải pháp thứ nhất là tiền đề, là cơ sở để giáo viên và HS có thể tiến hành xây dựng và tổ chức các trò chơi dạy học phân môn Lịch sử hiệu quả. d. Kết quả khảo nghiệm a. Khi tổ chức dạy học chưa áp dung trò chơi học tập: Qua dự giờ giáo viên và trao đổi với đồng nghiệp thì trong các tiết dạy giáo viên đều mắc phải những lỗi cơ bản như: tiết dạy trần, giáo viên nói nhiều, làm thay cho học sinh nhiều, tiết học nặng nề, thiếu sáng tạo, phần củng cố bài qua loa, không mấy hiệu quả Chính vì vậy mà tiết học hiệu quả không cao, không thu hút được sự hứng thú học tập của các em và chất lượng giảng dạy thấp. b. Sau khi áp dụng các trò chơi học tập vào dạy học: Qua quá trình chỉ đạo giáo viên áp dụng các trò chơi học tập vào các tiết học lịch sử, tôi thấy chất lượng giờ dạy được cải tiến hẳn lên. Giáo viên đã vận dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt và hiệu quả cao. Qua các tiết dự giờ, vai trò của người thầy đã thay đổi, giáo viên nói ít, làm ít mà thay vào đó học sinh được thảo luận, bàn bạc và đưa ra các phương án giải quyết vấn đề và tham gia vào các trò chơi tích cực, làm cho tiết học sôi nổi hẳn lên. Trong các tiết học nói chung và tiết lịch sử nói riêng, tôi nhận thấy học sinh có sự chuyển biến rõ nét: Tích cực xây dựng bài chứ không thụ động như trước, không e dè, ngại ngùng trước lớp mà thay vào đó các em đầy tự tin trong nói năng, giao tiếp. các em biết hợp tác để cùng nhau học tập và biết chia sẻ cùng nhau vì thế tiết học không còn đơn điệu, cứng nhắc và khô khan như trước. Kết quả khảo sát chất lượng giờ học trước và sau khi áp dụng trò chơi học tập: Chất lượng tiết học Học kì I Năm 2016-2017 Cuối học kì II Năm học 2017-2018 Cuối học kì I Năm học 2017-2018 Không khí tiết học Trầm Nhẹ nhàng, sôi nổi Nhẹ nhàng, sôi nổi, hào hứng Kĩ năng hợp tác Hạn chế Tích cực Tích cực Thái độ tham gia vào các trò chơi học tập Thờ ơ Nhanh nhẹn và có ý thức Nhanh nhẹn và có ý thức tự giác Học sinh hiểu và nắm nội dung bài 50 % 70 - 85 % 85- 90 % Do bài kiểm tra của môn Lịch sử và Địa lí là 10 điểm, nên phân môn Lịch sử: 5 điểm, phân môn Địa lí: 5 điểm. Như vậy, tôi chỉ thống kê kiểm tra phân môn Lịch sử như sau: Điểm kiểm tra của phân môn Lịch sử cuối học kì 2 năm học 2016 – 2017 Điểm Lớp 4A Lớp 4 B Lớp 4C Lớp 4 D Lớp 4 E Tổng 26 25 18 18 23 110 Điểm 5 4 4 2 2 3 15 Điểm 4 4 5 4 4 4 21 Điểm 3 17 15 12 12 16 72 Điểm 2 1 1 0 0 0 2 Điểm 1 0 0 0 0 0 0 Điểm kiểm tra của phân môn Lịch sử cuối học kì 1 năm học 2017 – 2018 Điểm Lớp 4A Lớp 4 B Lớp 4C Lớp 4 D Lớp 4 E Tổng 30 31 20 19 18 118 Điểm 5 5 6 3 3 2 19 Điểm 4 8 10 5 6 4 33 Điểm 3 17 15 11 10 11 64 Điểm 2 0 0 1 0 1 2 Điểm 1 0 0 0 0 0 0 Bảng 2: Kết quả học tập phân môn Lịch sử và Địa lí Lớp Học kì 1 Năm học 2016-2017 ( TSHS: 110 em) Học kì 2 Năm học 2016-2017 ( TSHS: 110 em) Học kì 1 Năm học 2017-2018 ( TSHS: 118 em) Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa HT Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa HT Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa HT 4A 5 20 1 8 18 0 10 20 0 4B 5 19 1 9 16 0 12 19 0 4C 4 13 1 6 12 0 7 13 0 4D 4 14 0 7 11 0 9 10 0 4E 4 19 0 6 16 1 6 12 0 Tổng 22 85 3 36 73 1 44 74 0 Như vậy qua những chỉ số trên, ta thấy rằng việc tổ chức trò chơi học tập trong dạy học Lịch sử ở Tiểu học có vai trò, ý nghĩa quan trọng như thế nào trong quá trình giảng dạy. Tuy là sự thử nghiệm không mới đối với các môn Toán, Tiếng Việt nhưng đối với phân môn Lịch sử là rất cần thiết. Nếu không có trò chơi học tập vào quá trình dạy học thì sức hấp dẫn và hiệu quả sẽ giảm đi rất nhiều. Phần kết luận, kiến nghị Kết luận: Đưa các trò chơi vào dạy học Lịch sử lớp 4 nói riêng và ở Tiểu học nói chung là một trong những cách đổi mới về hình thức tổ chức dạy học được nhiều người quan tâm nhằm gây " Hứng thú cho học sinh khi học Lịch sử ". Phương pháp tổ chức trò chơi học tập khi dạy lịch sử, giáo viên có thể sử dụng trong quá trình dạy kiến thức mới, ôn tập kiến thức, củng cố bài, kiểm tra bài cũ hay tổ chức hoạt động ngoại khóaTrò chơi học tập rất sát với nội dung bài học, áp dụng rộng rãi với ở mọi môi trường học tập vì thường đơn giản và dễ thực hiện. Đặc biệt khi áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học thì việc sử dụng trò chơi thông qua tiết dạy bằng giáo án điện tử càng thu hút sự chú và ghi nhớ kiến thức sâu của học sinh. Đề tài này đã được chỉ đạo và vận dụng vào giảng dạy thực tế trong tổ 4 mang lại kết quả khả quan. Chất lượng dạy học phân môn Lịch sử được nâng lên đáng kể. Vì thời gian có hạn nên đề tài chưa đi sâu nghiên cứu về các trò chơi của bài giảng điện tử tái hiện lại sự kiện lịch sử hấp dẫn. Hướng tiếp tục nghiên cứu: Trong những năm học tiếp sau, cùng với sự đầu tư trang thiết bị dạy học của các cấp, tiếp tục áp dụng SKKN vào thực tế giảng dạy để tìm ra những điểm chưa phù hợp và khắc phục. Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã trình bày các biện pháp quản lý, chỉ đạo của BGH nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. Trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và áp dụng các biện pháp sau: Chỉ đạo tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và học tập phân môn Lịch sử. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy phân môn Lịch sử gắn với các trò chơi và sáng tác thơ để ghi nhớ các sự kiện lịch sử và các mốc thời gian, nhân vật,... Chỉ đạo tổ chức các trò chơi “Tìm hiểu lịch sử” qua hoạt động ngoài giờ lên lớp có hiệu quả. Muốn dạy được tốt môn Lịch sử ở tiểu học nói chung và Lịch sử lớp 4 nói riêng chúng ta cần phải : Tìm hiểu và nắm bắt được vấn đề cơ bản về nội dung, chương trình, sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học; Nắm bắt định hướng đổi mới phương pháp theo mô hình VNEN và sử dụng công nghệ thông tin vào quá trình thiết kế, tổ chức các trò chơi sao cho thực chất có hiệu quả. Mỗi một người giáo viên phải không ngừng tự bồi dưỡng năng lực chuyên môn nhất là năng lực thiết kế, tổ chức các trò chơi phù hợp với nội dung bài học, các hoạt động học tập và đặc điểm tâm sinh lý của từng lớp học nhằm hướng học sinh vào quá trình tự học sinh tự học tập và tự chiếm lĩnh tri thức. Kiến nghị: không Eana, ngày 25 tháng 2 năm 2018 Người viết Nguyễn Thị Vui NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN MỤC LỤC TT Nội dung đề mục Trang 1 I. Phần mở đầu 1 2 1. Lý do chọn đề tài 1 3 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2 4 3. Đối tượng nghiên cứu 3 5 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 3 6 5. Phương pháp nghiên cứu 4 7 II. Phần nội dung 4 8 1. Cơ sở lí luận 4 9 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 5 10 3. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp 9 a. Mục tiêu của giải pháp 9 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. 9 c. Mối quan hệ giữa các biện pháp 27 d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi hiệu quả ứng dụng 27 11 III. Phần kết luận, kiến nghị 30 12 1. Kết luận 30 13 2. Kiến nghị 31 14 Nhận xét của hội đồng sáng kiến 32 15 MỤC LỤC 33 16 Tài liệu tham khảo 34 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu “Đố vui – đố hình” thử trí thông minh của NXB phụ nữ năm 2004 “Thiết kế bài giảng Lịch sử” lớp 4 của nhà xuất bản Hà Nội năm 2005 - Lê thị Hoaì Thu SGK Lịch sử và Địa lý lớp 4, NXB Giáo dục 4. Một số thông trên mạng In ternet.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_chi_dao_viec_thiet_ke.doc