Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phần Lịch sử thế giới trong chương trình Lịch sử lớp 8
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vai trò rất quan trọng, nó cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về lịch sử phát triển của xã hội loài người và lịch sử dân tộc. Trên cơ sở đó giáo dục, khơi dậy những tình cảm, tư tưởng, đạo đức làm chuẩn mực cho mọi hành vi trong cuộc sống, góp phần phát triển toàn diện học sinh.
Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay, việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập bộ môn đang là mối quan tâm hàng đầu. Riêng với bộ môn lịch sử, người giáo viên cũng không ngừng tìm kiếm, vận dụng các biện pháp để phát huy vai trò chủ thể của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong quá trình dạy học lịch sử lớp 8 tại Trường THCS Lương Thế Vinh, tôi đã cố gắng đi sâu vào tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của quá trình dạy – học để có biện pháp khắc phục cũng như tìm tòi, vận dụng nhiều biện pháp khác nhau vào việc hướng dẫn học sinh khám phá những tri thức mới. Từ đó nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phần Lịch sử thế giới trong chương trình Lịch sử lớp 8

tư bản của hai nước) Cứ như vậy giáo viên cho các em tìm hiểu các thuật ngữ mới khi nó xuất hiện. Và sẽ nhắc lại khi có điều kiện để các em nhớ. Cách thứ hai: Cách này hay hơn cách thứ nhất ở chỗ giáo viên có thể cho học sinh tự khám phá nội dung thuật ngữ bằng các câu hỏi gợi ý (nếu không trả lời được câu hỏi thứ nhất). Như vậy các em sẽ hiểu được bản chất khái niệm. Vừa gây hứng thú cho học sinh (vì các em tự tìm ra), vừa giúp nhớ được tốt hơn. Theo cách này, giáo viên giúp học sinh hiểu khái niệm ở từng đơn vị bài học. Học đến đâu tìm hiểu đến đó. Và cũng giống cách thứ nhất – khi đến các bài khác giáo viên cho học sinh nhắc lại khái niệm. Ví dụ 1: Khi dạy bài 1 – Những cuộc cách mạng tư sản đẩu tiên, sau khi dạy xong mục II3 – Ý nghĩa của cách mạng tư sản Anh cuối thế kỉ XVII, giáo viên đặt câu hỏi: Các em đã tìm hiểu xong hai cuộc cách mạng tư sản (Hà Lan và Anh), theo em thế nào là cách mạng tư sản?(câu hỏi gợi ý: Cách mạng do giai cấp nào lãnh đạo? Mục đích của cách mạng là gì?). Học sinh sẽ trả lời được: Cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ví dụ 2: Dạy bài 7 – Phong trào công nhân quốc tế cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, ở mục II1 – Lê – nin và việc thành lập chính đảng vô sản kiểu mới ở Nga, sau khi cho học sinh trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa: “Những điểm nào chứng tỏ Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga là đảng kiểu mới?” xong giáo viên đặt tiếp câu hỏi: Đặc trưng nổi bật nhất của “đảng kiểu mới” là gì? (câu hỏi gợi ý: đảng do giai cấp nào lãnh đạo? Phục vụ lợi ích cho giai cấp nào?). Học sinh trả lời được: Đảng do giai cấp vô sản lãnh đạo, phục vụ lợi ích cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Ví dụ 3: Cũng trong bài 7 – Phong trào công nhân quốc tế cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, ở mục II2 – Cách mạng Nga 1905 – 1907, sau khi dạy xong giáo viên có thể hỏi: Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới là gì? (Câu hỏi gợi ý: Giai cấp nào lãnh đạo? Nhiệm vụ của cách mạng là gì?). Học sinh trả lời được: Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, làm nhiệm vụ lật đổ chế độ phong kiến (vốn là nhiện vụ của cách mạng tư sản kiểu cũ – do giai cấp tư sản lãnh đạo). Các khái niệm này có thể có hoặc không có (như khái niệm Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới) trong SGK, nhưng dù có hay không giáo viên cần cho học sinh khắc sâu, ghi nhớ các khái niệm (nhưng cần tránh gây áp lực cho học sinh). Khái niệm cung cấp cho học sinh cần ngắn gọn, không dài dòng, dễ hiểu, tránh mơ hồ. Nếu không đáp ứng được yêu cầu này rất dễ phản tác dụng: học sinh khó nhớ, tăng dung lượng kiến thức bài học, học sinh sợ môn Lịch sử, Để học sinh nhớ tốt, trong dạy học lịch sử, cần tìm hiểu khái niêm, giáo viên nên đặt câu hỏi để học sinh tự tìm hiểu trước ( yêu cầu học sinh tìm hiểu những khái niệm mới ở bài tiếp theo). Ví dụ: Dạy xong bài 5 – Công xã Pa – ri 1871, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà tìm hiểu khái niệm “Công ti độc quyền” sẽ có trong bài 6 - Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX Trong quá trình học, nếu học sinh trả lời đúng thì cần tuyên dương và khuyến khích bằng điểm số. Làm như vậy sẽ để lại ấn tượng sâu sắc hơn là giáo viên tự cung cấp cho học sinh. Cách thứ ba: Kết hợp cách thứ nhất và cách thứ hai. Có nghĩa là đầu năm giáo viên cung cấp cho học sinh một hệ thống các khái niệm nhưng đến mỗi đơn vị bài học giáo viên vẫn yêu cầu học sinh nhắc lại khái niệm liên quan đến bài học. Bởi không phải học sinh nào cũng có ý thức tìm hiểu khi được cung cấp tài liệu. Giải thích nghĩa của khái niệm tưởng chừng không có ý nghĩa đối học sinh nhưng thực chất lại rất quan trọng. Ta thử hình dung, nếu học sinh không nắm được khái niệm “tư sản” và “vô sản” thì điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắn sẽ có nhiều học sinh lẫn lộn giữa hai khái niệm này và đưa ra câu trả lời sai. Bên cạnh đó, khi khắc sâu được khái niệm, học sinh sẽ nhớ được lâu và như vậy các em có thể sử dụng nó bất cứ lúc nào, ở đâu, và dù ai hỏi đến cũng trả lời được. Có lẽ trong cuộc đời giáo viên không gì hạnh phúc hơn khi học sinh của mình có thể vận dụng kiến thức do mình hướng dẫn vào cuộc sống. 2.2. Tìm hiểu nội dung bằng “Nêu vấn đề”. Nêu vấn đề ở đây được hiểu là giáo viên nêu lên các yêu cầu cần tìm hiểu trong mỗi mục để học sinh tự tìm ra vấn đề và trình bày đầy đủ nội dung của mỗi mục. Dạy – học bằng biện pháp này có thể áp dụng được cho tất cả các bài. Ưu điểm là phát huy được nhiều hơn vai trò chủ thể của học sinh, giúp các em cải thiện khả năng trình bày, khả năng thuyết trình. Khi các em đã thành thạo, giáo viên có thể hướng các em đến việc tranh luận trong khi tìm hiểu vấn đề. Nhờ đó tiết học trở nên sinh động và dễ đạt mục tiêu bài học hơn Khi áp dụng biện pháp này giáo viên cần xác định trước trong mục đó có mấy vấn đề cần làm rõ rồi nêu ra cho học sinh tự tìm thông qua hoạt động cá nhân hoặc trao đổi với các bạn khác. Xác định các câu hỏi để làm rõ vấn đề, nâng cao, mở rộng ... Các câu hỏi trong từng mục trong SGK cần được làm rõ khi tìm hiểu. Ví dụ 1. Khi dạy mục I1 - Tình hình kinh tế trong bài 2 – Cách mạng tư sản Pháp thế kỉ XVIII, giáo viên không đặt từng câu hỏi riêng lẻ mà yêu cầu học sinh tìm hiểu và trình bày các vấn đề: - Tình hình nông nghiệp; - Tình hình công nghiệp; - Thái độ thái độ của giai cấp thống trị đối với tình hình công nghiệp. Ví dụ 2. Khi dạy mục I1 - Anh trong bài 6 - Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX giáo viên yêu cầu học sinh trình bày các vấn đề sau: - Kinh tế; - Chính trị; - Đối nội, đối ngoại. Ở bài 6, các yêu cầu này có thể áp dụng khi tìm hiểu về Pháp, Đức, Mĩ. Ví dụ 3. Khi dạy mục II2 – Cách mạng Nga 1905 – 1907 trong bài 7 - Phong trào công nhân quốc tế cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX giáo viên yêu cầu học sinh trình bày các vấn đề sau: - Nguyên nhân dẫn đến cách mạng; - Các sự kiện tiêu biểu (thời gian, diễn biến, kết quả); - Kết quả chung của các phong trào , nguyên nhân, ý nghĩa. Trong ví dụ 3, nếu học sinh trình bày được đầy đủ thì không cần đặt thêm câu hỏi nào vì như vậy là đạt mục tiêu. Giáo viên quy định thời gian cho học sinh tìm hiểu, sau đó yêu cầu học sinh trình bày. Những mục nào có nội dung ít, đơn giả thì ghi yêu cầu lên bảng, còn nội dung dài, phức tạp có thể cho học sinh trao đổi, thảo luận bằng phiếu thảo luận nhóm. Trong quá trình thảo luận ta có thể có những câu hỏi gợi ý nếu nội dung thảo luận khó. Ví dụ: Yêu cầu trong ví dụ 1 và 2 ta có thể ghi lên bảng, trong ví dụ 3 có nội dung dài, hơi khó nên giáo viên có thể cho các em thảo luận nhóm bằng phiếu học tập. Sau khi học sinh trình bày xong giáo viên cho các học sinh khác nhận xét bổ sung. Tới lúc này chúng ta có thể đặt thêm các câu hỏi phụ để làm rõ thêm vấn đề. Ví dụ 1. Cũng trong ví dụ 1 (Tình hình kinh tế), khi học sinh trình bày, nhận xét, bổ sung xong giáo viên có thể đặt câu hỏi: Tại sao chế độ phong kiến lại tìm cách cản trở sự phát triển của công, thương nghiệp? Giáo viên gợi ý cho học sinh trả lời được: là do phong kiến luôn tìm cách kìm hãm giai cấp tư sản phát triển. Đây là đặc điểm chung. Ví dụ 2. . Khi dạy mục I1 - Anh trong bài 6 - Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, học sinh trình bày, nhận xét bổ sung xong giáo viên có thể đặt thêm các câu hỏi để làm rõ thêm vấn đề: Câu 1. Nguyên nhân nào khiến Anh từ chỗ đứng đầu thế giới về công nghiệp đến giai đoạn này xuống vị trí thứ ba? Câu 2. Vì sao giai cấp tư sản Anh chú trọng đầu tư vào thuộc địa? Câu 3. Tại sao Anh được gọi là “chủ nghĩa đế quốc thực dân”? Giáo viên giúp học sinh trả lời được: Câu 1. (Có trong SGK). Câu 2. Đầu tư vào thuộc địa vì có nguồn lực lao động dồi dào, rẻ mạt, đỡ tốn phí vận chuyển tài nguyên về chính quốc, Câu 3. Vì Anh là nước chuyên đi xâm lược thuộc địa, có thuộc địa nhiều nhất thế giới. Khi mới sử dụng biện pháp này giáo viên cần hướng dẫn kĩ cho học sinh, nếu ở lớp nào làm không tốt giáo viên có thể làm mẫu để học sinh làm theo (từ đó các em có thể sáng tạo để hoàn thiện kĩ năng). Những tiết đầu có thể đa số học sinh sẽ đọc chứ không nói. Giáo viên cần hướng dẫn, làm mẫu để các em trình bày bằng các nói. Yêu cầu các em tóm tắt, khái quát vấn đề. Sau đó lấy các ý trong sách giáo khoa để chứng minh. Làm được như vậy cũng là góp phần giúp các em hoàn thiện kĩ năng nói. Một kĩ năng rất quan trọng trong cuộc sống. Trong dạy học, với biện pháp này giáo viên phát huy được vai trò trung tâm của học sinh nhiều hơn. Giúp học sinh làm quen, hoàn thiện kĩ năng thuyết trình, khả năng tranh luận. Khi học sinh đã thành thạo giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh cách “chất vấn”. Tức là khi bạn trình bày xong các học sinh trong lớp sẽ đặt câu hỏi để bạn trả lời. Ban đầu các em chưa quen nên thường e ngại. Giáo viên cố gắng động viên để các em mạnh dạn. Khi đã quen thì việc đặt câu hỏi sẽ tự nhiên và nhờ vậy lớp học rất sôi động. Các câu hỏi của học sinh nhìn chung là tốt, có những câu hỏi gây được sự chú ý của cả lớp làm cho lớp trở nên sinh động. Có câu lại “làm khó” học sinh trả lời. Lúc này chính là cơ hội để các học sinh khác “thể hiện mình”. Khi không ai trả lời được thì giáo viên giúp các em làm rõ nội dung câu hỏi. Ví dụ: Dạy bài 9 - Ấn Độ thế kỉ XVIII – đầu thể kỉ XX, khi xong mục II – Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ có học sinh đã đặt câu hỏi: Tại sao Đảng Quốc đại lại phân hóa thành hai phái? Tuy nhiên cũng không phải không có những câu hỏi không hợp lí. Trong trường hợp đó giáo viên không nên phê bình hay la rầy các em mà nên giải thích tại sao câu hỏi đó không hợp lí. Biện pháp này, ngoài những ưu điểm đã nêu ở trên nó còn giúp học sinh phát huy, rèn luyện khả năng nhận định vấn đề chính khi đọc sách, rèn khả năng tự xác định nội dung chính trong một đơn vị bài học. Khi học sinh đã quen với cách làm này giáo viên sẽ nâng cao thêm một bước – yêu cầu học sinh tự xác định vấn đề chính trong mỗi mục mà các em sẽ tìm hiểu. Ví dụ 1: Khi dạy mục I – Trung Quốc bị các nước đế quốc chia xẻ trong bài 10 – Trung Quốc giữa thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, giáo viên yêu cầu: Các em hãy xác định những vấn đề cần làm rõ trong mục này? Học sinh trả lời: Nguyên nhân Trung Quốc bị xâm chiếm. Các nước xâm chiếm Trung Quốc. Ví dụ 2: Cũng tương tự ví dụ 1, khi dạy mục I – Quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân ở các nước Đông Nam Á trong bài 11 – Các nước Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, giáo viên cũng sử dụng câu hỏi trên để học sinh tự xác định. Học sinh trả lời được: Nguyên nhân khiến các nước Đông Nam Á bị xâm lược. Xác định được các nước bị tư bản phương Tây xâm lược. Sau đó yêu cầu các em làm rõ vấn đề. Đặt một số câu hỏi cần thiết để làm rõ nội dung, nâng cao, mở rộng, ... Lúc mới áp dụng giáo viên chỉ yêu cầu các em xác định ở những mục có nội dung đơn giản, sau đó mới yêu cầu các em làm việc với những mục có nội dung khó – phức tạp hơn. Ngoài ra khi tiến hành bước Dặn dò giáo viên cũng có thể yêu cầu các em về nhà chuẩn bị trước ở bài tiếp theo: xác định các vấn đề cần làm rõ, làm rõ các vấn đề đã xác định. Với biện pháp này học sinh sẽ hoạt động nhiều, chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức. Vai trò chủ thể hoạt động học của học sinh đã được phát huy. Giáo viên phải hoạt động ít hơn, đóng vai trò là người hướng dẫn. C. KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI, CÓ SO SÁNH ĐỐI CHỨNG, ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP. Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh học tốt phần lịch sử thế giới trong chương trình Lịch sử 8. Đó cũng là những gì tôi tích luỹ được trong quá trình dạy lịch sử của tôi. Với các biện pháp trên, học sinh hiểu, nhớ bài tốt hơn. Các em hứng thú học tập. Tăng tính cạnh tranh giữa các học sinh. Vai trò chủ thể hoạt động học được phát huy. Nhiều học sinh mạnh dạn hơn. Giáo viên đánh giá năng lực học sinh chính xác hơn. Bên cạnh đó còn rèn luyện cho các em một số kĩ năng cần thiết cho học tập cũng như trong cuộc sống. Những biện pháp trên được tôi rút ra từ thực tế cũng như thông qua trao đổi với đồng nghiệp, có thể vẫn còn hạn chế. Vậy tôi mong được tiếp thu ý kiến đóng góp của BGH, Hội đồng khoa học nhà trường và Hội đồng khoa học của Phòng giáo dục – đào tạo để từ đó có thể trao đổi, rút kinh nghiệm giúp tôi nâng cao chất lượng giảng dạy ở bộ môn. Trên đây là hai trong số những biện pháp mà tôi đã áp dụng (còn có các biện pháp: so sánh, liên hệ kiến thức cũ, kể chuyện lịch sử) đem lại hiệu quả dạy – học khả quan. Điểm nổi bật của những biện pháp này là đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy – học, vai trò của học sinh được phát huy nhiều hơn. Các em thấy được giá trị của mình trong quá trình tiếp thu tri thức. Học sinh hiểu, nhớ tốt hơn. Bảng so sánh đối chiếu Lớp Sĩ số Trước khi thực hiện ( đầu học kỳ I) Sau khi thực hiện Giữa đầu học kỳ I Cuối học kỳ I Điểm trên 5 Điểm dưới 5 Điểm trên 5 Điểm dưới 5 Điểm đạt yêu cầu: 5 trở lên Số điểm % Số điểm % Số điểm % Số điểm % Số điểm % 8A 45 32 71,1% 13 28,9 41 91,1 4 8,9 45 100 8B 45 30 66,7% 15 33,3 40 88,9 5 11,1 45 100 8C 44 29 65,9% 15 34,1 39 88,63 5 11,36 43 97.73 8D 39 24 61,3% 15 38,7 32 82 9 18 37 94,87 8E 37 20 54 % 17 46 29 78,37 18 21,65 34 91,89 Bài học kinh nghiệm Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau: - Trước mỗi bài học, mỗi mục giáo viên cần nêu lên mục tiêu cần đạt. Điều đó giúp học sinh hình dung được nội dung bài học. - Với chương trình giảm tải của Bộ Giáo dục – Đào tạo, thời gian cho thầy và trò hoạt động được thoải mái hơn. Tuy nhiên không phải vì thế mà lạm dụng, giáo viên phải áp dụng các biện pháp hợp lí, bảo đảm thời gian, không gây ức chế cho học sinh. - Sự động viên, khích lệ của giáo viên là rất cần thiết. Đó có thể là những lời khen, cũng có thể là điểm số. Giáo viên không chỉ mời học sinh xung phong trình bày mà phải gọi cả các em không xung phong (có thể do không biết, lười suy nghĩ, nhút nhát). - Kết hợp nhiều phương pháp, biện pháp dạy học khác nhau. Sử dụng phương tiện dạy học phù hợp ... D. NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ NGHỊ SAU KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Để việc dạy – học lịch sử lớp 8 đạt hiệu quả cao hơn tôi có một số đề nghị sau: - Tranh ảnh, bản đồ lịch sử lớp 8 chưa đủ, còn thiếu nhiều nên cần bổ sung. Cần có các tư liệu về âm thanh – video để phục vụ tốt hơn cho việc dạy – học. - Thường xuyên tổ chức các chuyên đề để các đồng nghiệp học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫm nhau. Giúp nhau tiến bộ. - Nếu được, mỗi năm nhà trường nên tổ chức một cuộc thi về kiến thức lịch sử (Như chương trình Theo dòng lịch sử của VTV2) để tạo ra một sân chơi bổ ích cho các em. Có thể nói rằng qua việc thực hiện đê tài này tôi đã rút ra được cho mình rất nhiều bài học từ việc xác định kiến thức bổ sung, soạn giáo án cho đến việc giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn E. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Sách giáo khoa, sách giáo viên môn lịch sử lớp 8 2. Từ điển Lạc Việt 2009 – Công ti Cổ phần Tin học Lạc Việt 3. Tranh, ảnh, và tài liệu tham khảo khác
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.doc