Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9
Thế kỉ XXI, đất nước ta có bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt đòi hỏi mỗi người cần phải năng động, sáng tạo, có tay nghề cao, sẵn sàng thích ứng với những biến đổi diễn ra hàng ngày. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ (VIII) - khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra một yêu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp giáo dục là phải đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài phục vụ đất nước.
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi, ươm trồng những hạt giống nhân tài cho quê hương, đất nước là một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết vì những người tài bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển. Đặc biệt đối cấp học THCS, bồi dưỡng học sinh giỏi được xem là mũi nhọn của mỗi trường nói riêng của ngành giáo dục nói chung. Kết quả học sinh giỏi là thước đo năng lực của mỗi nhà giáo và cũng là thương hiệu cho mỗi nhà trường.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9

. Hơn 100 quốc gia độc lập trẻ tuổi ra đời, ngày càng giữ vai trò quan trọng trên trường quốc tế. Nhiều nước đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước tư bản chủ nghĩa có những nét nổi bật: + Kinh tế các nước tư bản phát triển nhanh chóng, tuy nhiên có lúc không tránh khỏi suy thoái khủng hoảng. + Mĩ vươn lên trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất, đứng đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa và theo đuổi mưu đồ thống trị thế giới. + Xu hướng liên kết khu vực về kinh tế- chính trị càng ngày phổ biến, điển hình Liên minh châu Âu. - Về quan hệ quốc tế, sự xác lập của trật tự của thế giới hai cực với đặc trưng lớn là sự đối đầu gay gắt giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này là nhân tố chủ yếu chi phối nền kinh tế chính trị thế giới và quan hệ quốc tế trong phần lớn nửa sau thế kỷ XX. - Với những tiến bộ phi thường và những thành tựu kì diệu, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã và sẽ đưa lại những hệ quả nhiều mặt không lường hết được đối với loài người cũng như mỗi quốc gia, dân tộc. 2.2.4.2. Đề thi xác định, phân tích tính chất của sự kiện lịch sử Phân tích, chứng minh là một dạng đề được xem là "khó" nhất trong các dạng đề thi khi tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử. Với cấp độ yêu cầu đối với học sinh THCS, dạng đề này thường chưa đặt ra yêu cầu cao, song lại phải vận dụng thường xuyên trong quá trình học và làm bài. Ví dụ đề thi: “ Hãy phân tích tính đúng đắn khoa học và sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái quốc soạn thảo? Để làm được đề này học sinh phải phải nắm vững các vấn đề cơ bản sau đây: a. Nêu hoàn cảnh ra đời của cảnh ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Tại hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930), các đại biểu đã thảo luận và thông qua chính Cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. b. Phân tích nội dung của Cương lĩnh - Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược cách mạng Đảng là tiến hành cuộc cách mạng “ tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. - Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do, lập chính phủ công nông binh, tịch thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất... - Lực lượng của cách mạng là công nông, tiểu tư sản, trí thức. Còn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản sản thì phải lợi dụng hoặc trung lập học, đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới. - Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp vô sản sẽ giữ vai trò lãnh đạo cách mạng. c. Ý nghĩa của Cương lĩnh Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo tuy còn vắn tắt, song đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, sớm kết hợp đúng đắn về vấn đề dân tộc và giai cấp. Độc lập và tự do là tư tưởng chủ yếu của Cương lĩnh này. 2.2.4.3. Đề thi xác định nguyên nhân thành công của một sự kiện lịch sử Đây là loại đề thi thường gặp nhưng cái khó của học sinh là lý giải được nguyên nhân nào có tính chất quyết định nhất. Với loại đề này học sinh phải trình bày được nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng phải lí giải được nguyên nhân chủ quan có vai trò quyết định đến nguyên nhân thành công của một sự kiện lịch sử. Ví dụ: Đề thi xác định nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám 1945, nguyên nhân nào có tính chất quyết định nhất? Vì sao? Để làm được đề này, học sinh phải nắm vững các vấn đề cơ bản sau: Thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945 là kết quả tổng hợp của những nhân tố khách quan và chủ quan: * Về khách quan: Cách mạng tháng Tám thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu một phần nhờ có hoàn cảnh quốc tế thuận lợi. Chiến tranh thế giới thứ hai của bọn đế quốc làm cho chúng ngày càng thêm suy yếu. Tiếp đó là cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô và lực lượng dân chủ đã từng bước làm thất bại lực lượng phát xít Đức- I-ta-li-a-Nhật Bản: Tất cả đã tác động đến cách mạng thế giới, thúc đẩy các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng. Đến khi lực lượng đồng minh và Liên Xô đánh bại Phát xít Nhật ở Châu Á Thái Bình Dương vào ngày 14/8/1945 đã tạo nên thời cơ khách quan cho cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đó là thời cơ “ ngàn năm có một” được Đảng ta triệt để lợi dụng, kịp thời chớp lấy, phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa và giành thắng lợi một cách nhanh chóng và ít đổ máu. Tuy nhiên, điều kiện khách quan đó chỉ có thể được phát huy thông qua điều kiện chủ quan của ta. * Về chủ quan: Trong những nguyên nhân đó nguyên nhân có Đảng lãnh đạo là nhân tố cơ bản nhất để cách mạng tháng Tám thắng lợi. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước sâu sắc, đã kiên cường đấu tranh bất khuất từ ngàn xưa cho độc lập tự do.Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì mọi người hăng hái hưởng ứng, nhất tề đứng lên cứu nước cứu nhà. Có khối liên minh công nông vững chắc, tập hợp được mọi lực lượng yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, biết kết hợp tài tình đấu tranh chính trị và vũ trang, đấu tranh du kích và khởi nghĩa từng phần. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh . Trong những nguyên nhân đó nguyên nhân có Đảng lãnh đạo là nhân tố cơ bản nhất để cách mạng tháng Tám thắng lợi. Khi xác định nguyên nhân quyết định nhất, trước hết phải thấy rằng nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định, nguyên nhân khách quan chỉ có tác dụng đưa cách mạng tháng Tám nhanh chóng giành được thắng lợi và ít đổ máu. Trong các nguyên nhân chủ quan đó vai trò lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh là nguyên nhân quyết định nhất Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với đường lối cách mạng đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh trong 15 năm, qua các lần diễn tập (1930-1931), (1936-1939), (1939-1945). Đặc biệt khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Và khi thời cơ xuất hiện, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, đưa cách mạng tháng Tám đến thắng lợi cuối cùng. 2.2.5. Biện pháp 5: Chú trọng việc kiểm soát kiến thức của học sinh thông qua từng chuyên đề và qua các bài kiểm tra. Đây là hoạt động có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công tác bồi dưỡng mà bản thân đã áp dụng trong thời gian được phân công trực tiếp giảng dạy. Trước khi học chuyên đề mới những kiến thức học sinh đã bồi dưỡng ở chuyên đề trước được giáo viên kiểm tra nhuần nhuyễn tạo cơ sở để các em dễ dàng tiếp cận các chuyên đề sau. Bởi lịch sử có sự logic của nó chuyên đề trước là nguyên nhân của chuyên đề sau. Có hai cách kiểm soát kiến thức cho học sinh đó là: Kiểm tra bằng lời gọi học sinh lên bảng trình bày giáo viên và các thành viên trong lớp nghe, nhận xét, bổ sung kiến thức với biện pháp này học sinh có cơ hội trình bày quan điểm của mình trước tập thể, rèn luyện cho các em tâm lí bình tĩnh tự tin khi làm bài.Trong quá trình kiểm soát giáo viên có thể cho học sinh tự kiểm tra lẫn nhau. Kiểm tra bằng cách gọi học sinh ghi lại phần kiến thức đã học. Biện pháp này có hiệu quả vừa tác động đến óc, tai mắt do vậy huy động tối đa đa khả năng của các em. Trong quá trình học sinh thể hiện giáo viên có thể điều chỉnh cách trình bày bài của các em. Qua phần kiến thức bạn trình bày các em có thể tự sữa sai và bổ sung những kiến thức còn thiếu. Đồng thời đây cũng là thời gian để các em tự tái hiện lại kiến thức khắc sâu nhớ bền vững kiến thức cho bản thân mình. Công tác kiểm tra thường xuyên sau mỗi chương hoặc sau mỗi chuyên đề được giáo viên chú trọng. Việc làm này giúp học sinh tự trình bày những kiến thức đã thu nhận được vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các câu hỏi mở, qua đó giáo viên sẽ có điều kiện giúp các em điều chỉnh cách trình bày bài, cách dùng từ, diễn đạt ý. Học sinh giỏi môn Lịch sử nói chung và Lịch sử 9 nói riêng không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử, kĩ năng phân tích đánh giá sự kiện Lịch sử, mà còn có sự sáng tạo. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng cho học sinh chúng tôi thường xuyên quan tâm đến việc chấm và sửa bài cho học sinh một cách chu đáo kĩ càng để các em tự bổ sung kiến thức đây là một trong những giải pháp quan trọng giúp cho công tác bồi dưỡng đạt kết quả cao. 2.2.6. Biện pháp 6: Xây dựng tư tưởng, tâm lý vững chắc cho học sinh. Trong nhiều năm thực hiện công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân tôi nhận thấy rằng cần phải tạo cho học sinh có một tâm lý thật sự thoải mái trong quá trình ôn tập cũng như khi chuẩn bị bước vào kì thi. Tránh gây cho học sinh áp lực nặng nề, chẳng hạn như: Giáo viên luôn tạo ấn tượng cho học sinh về kỳ thi học sinh giỏi là cực kì khó, đòi hỏi sự cao siêu...điều này làm cho học sinh có cảm giác lo sợ, mất tự tin hoặc giáo viên luôn áp đặt cho học sinh rằng đã thi là phải đậu, phải có số điểm cao...Làm như vậy sẽ gây áp lực tâm lý cho học sinh và dẫn đến kết quả không tốt, thậm chí có nhiều học sinh vì sợ không đạt được mục tiêu bắt buộc đó nên đã xin từ bỏ đội tuyển học sinh giỏi. Muốn làm tốt vấn đề nêu trên, theo tôi trước hết người giáo viên phải có những tư vấn cần thiết làm cho học sinh có cảm giác rằng kì thi học sinh giỏi dù ở cấp nào cũng vậy nó vẫn giống như các kì thi diễn ra thường xuyên ở nhà trường. Ngoài ra tôi thường nêu rõ quan điểm rằng "Khi các em được chọn đi ôn thi thì phải cố gắng hết mình. Nếu đạt kết quả cao thì càng tốt, còn nếu không thì chúng ta vẫn vui, vẫn hãnh diện vì đó là sự cố gắng lớn lao của bản thân mình". Chính những động thái này của giáo viên sẽ làm cho học sinh có cảm giác an tâm, thoải mái nhưng luôn cố gắng để học tập một cách tốt nhất. Tóm lại, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử 9 nói riêng là một trong những hoạt động vất vả, khó khăn và thử thách đối với những người làm nghề dạy học, là công tác cực kì quan trọng giúp cho ngành giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những mầm giống tương lai cho đất nước trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời giúp cho học sinh thực hiện được ước mơ là con ngoan, trò giỏi và có định hướng đúng về nghề nghiệp của mình trong tương lai. Để làm được điều đó hơn ai hết người thầy cần không ngừng học hỏi và tự học hỏi để nâng cao trình độ đúc rút kinh nghiệm, thường xuyên xây dựng, bổ sung chương trình và sáng tạo trong phương pháp giảng dạy. Người thầy có vai trò quyết định nhất đối với kết quả học sinh giỏi, các em học sinh có vai trò quyết định trực tiếp đối với kết quả của mình, kết quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có đạt hay không, điều đó còn phụ thuộc rất lớn ở các em học sinh. 2.3. Kết quả đạt được * Những kết quả qua những năm bản thân trực tiếp bồi dưỡng HSG: Năm học Số học sinh hứng thú Số học sinh không hứng thú Số học sinh không biết vận dụng kiến thức 2012-2013 35% 60% 55% 2013-2014 50% 45% 40% 2014-2015 70% 25% 20% Năm học Số HS đạt giải cấp huyện Số HS đạt giải cấp tỉnh Điểm TB đội tuyển Xếp vị thứ cấp tỉnh 2012-2013 9 5 5,2 3 2013-2014 8 8 6,75 1 2014-2015 8 5 6,98 3 * Có được kết quả như trên, bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau: Làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi phải có tâm huyết, yêu người, yêu học sinh, có tinh thần trách nhiệm, chịu khó tìm tòi sáng tạo trong công tác chuyên môn, biết khơi dậy sự đam mê, hứng thú làm cho các em biết yêu thích bộ môn. Có kế hoạch đúng đắn phù hợp với đối tượng học sinh để đề ra biện pháp phù hợp, phối hợp chặt chẽ với giáo viên tuyến 2 và phụ huynh học sinh để kiểm soát kiến thức và đảm bảo an toàn giao thông cho học sinh, tạo sự đoàn kết yêu thương nhau giữa các em học sinh trong lớp. Giáo viên luôn tìm tòi sưu tầm các bộ đề thi năm trước và đề thi các tỉnh khác cho học sinh làm quen tránh gây tâm trạng bỡ ngỡ cho các em khi làm bài. Trong bồi dưỡng, cách thức ôn tập được tiến hành một cách phong phú đa dạng trong bài học. Kiến thức phù hợp với trình độ học sinh, chú ý nâng cao để phù hợp với học sinh giỏi. Ôn tập bồi dưỡng không đánh đố học sinh mà chủ yếu khơi dậy sự suy nghĩ đam mê hứng thú cho học sinh. Bồi dưỡng nội dung từ đơn giản đến phức tạp. Từ cụ thể đến trừu tượng, khái quát hóa. Phải nắm chắc từng thành viên trong đội tuyển để từ đó thực hiện công tác bồi dưỡng sát với từng học sinh hơn. Sử dụng đa dạng phương pháp trong một buổi ôn tập tạo nên sự thoải mái trong học tập của học sinh. III. PHẦN KẾT LUẬN Để làm tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử có thể có nhiều cách làm khác nhau, nhưng với bản thân tôi nghĩ rằng giáo viên phải biết khơi dậy sự đam mê, hứng thú làm cho các em yêu thích bộ môn. Trong quá trình thực hiện giáo viên vận dụng linh hoạt, có sự điều chỉnh, bổ sung, ứng dụng những biện pháp trên thì kết quả đem lại rất khả quan, chất lượng đội tuyển từng bước được nâng cao. Chất lượng giáo dục có vai trò quan trọng vì nó phản ánh trình độ dân trí, hiểu biết của người dân một nước, là nền tảng cho chiến lược phát triển con người. Bác Hồ đã căn dặn chúng ta: “Dù cho có khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt và học tốt”. Vì vậy việc nâng cao chất lượng học tập môn Lich sử và đội tuyển học sinh giỏi là rất cần thiết, nó góp phần quan trọng trong việc trang bị kiến thức chắc chắn cho các em, làm cho các em sự tự tin vững chắc bước tiếp con đường học vấn và tích lũy kĩ năng sống, có bản lĩnh, có trình độ, có đạo đức, có kiến thức để chủ động sáng tạo trong công việc. Kết quả đạt được của việc bồi dưỡng học sinh giỏi là mục tiêu phấn đấu cao nhất của giáo viên, học sinh lẫn phụ huynh. Bởi chính kết quả ấy thể hiện rõ khả năng học tập, lĩnh hội và vận dụng kiến thức của học sinh, thể hiện công sức đầu tư của thầy cô giáo, là định hướng phát triển thế mạnh của lãnh đạo trường học và cũng qua đó thể hiện khả năng vượt trội của một số học sinh trong từng bộ môn, từ đó tài năng của học sinh có điều kiện để phát triển trong tương lai qua từng lĩnh vực mà các em yêu thích. Trên đây là những biện pháp bản thân tôi đã đúc rút được qua quá trình trực tiếp làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, cũng như qua tham khảo ý kiến của một số đồng nghiệp cùng bộ môn. Trong quá trình tích lũy kinh nghiệm và viết sáng kiến kinh nghiệm không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô, các anh chị đồng nghiệp để việc dạy học môn Sử và đặc biệt là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt kết quả tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! XẾP LOẠI CỦA BAN HĐKH TRƯỜNG Hiệu Trưởng Nguyễn Ngọc Phưởng
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_b.doc