Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong dạy học Lịch sử lớp 8, 9 tại trường THCS Quảng Hưng - TP Thanh Hóa

1.1. Lí do chọn đề tài:

Trên thế giới, ở nhiều quốc gia, việc dạy học lịch sử vốn được coi trọng từ lâu. Ở thời cổ đại, các nhà sử học đã xem “Lịch sử là cô giáo của cuộc sống”. Đại hội của hội đồng quốc tế các nhà khoa học lịch sử (năm 1980) đã khẳng định: “Muốn đào tạo con người phù hợp với thời đại của chúng ta cần phải không ngừng cải tiến chất lượng dạ học lịch sử. Cuộc cách mạng khoa học kí thuậ, sự hứng thú hấp dẫn ngày càng tăng đối với hiện tại không hề làm giảm bới sự chú ý của chúng ta đối với việc dạy học lịch sử. Chính lịch sử là bằng chứng hiển nhiên về sự toàn thắng trong công cuộc xây dựng sáng tạo đối với sự tàn phá, chiến thắng của hòa bình đối với chiến tranh, sự gần gũi hiểu biết của các dân tộc về văn hóa và các mặt khác, khắc phục tình trạng biệt lập”.

Dân tộc Việt Nam không chỉ có lịch sử lâu đời mà còn có nhiều kinh nghiệm trong giáo dục lịch sử truyền thống cho thế hệ trẻ. Năm 1941, khi về Pắc Pó trực tiếp lãnh đạo nước ta, Nguyễn Ái Quốc đã biên soạn quyển “Lịch sử nước ta” mở đầu bằng hai câu thơ:

“Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Theo Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà Nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- kế hoạch. Chính vì lẽ đó, đòi hỏi cấp bách phải đổi mới phương pháp dạy học trong đó có việc dạy và học môn Lịch sử.

doc 19 trang SKKN Lịch Sử 01/06/2025 150
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong dạy học Lịch sử lớp 8, 9 tại trường THCS Quảng Hưng - TP Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong dạy học Lịch sử lớp 8, 9 tại trường THCS Quảng Hưng - TP Thanh Hóa

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong dạy học Lịch sử lớp 8, 9 tại trường THCS Quảng Hưng - TP Thanh Hóa
 nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, thông tin hay văn học, nghệ thuật, tư tưởng, âm nhạc, hội họa, ở thời cận đại và những ảnh hưởng, tác động của nó đối với xã hội. Giáo viên có thể kể một vài mẫu chuyện về danh họa nổi tiếng Pi-cát-xo (mẫu đàn ông trong mắt của nhiều phụ nữ đương thời vì tài vẽ tranh của ông), hay những bản giao hưởng của thiên tài âm nhạc Mô-da, kể về tác phẩm văn học AQ chính truyện, hoặc giáo viên yêu cầu học sinh nói lên những gì mình biết về hai nhà triết học: Hê-ghen, Phơi-ơ-bách  thì mới tạo được chiều sâu của bài giảng. 
 Khi dạy Bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 1919-1925 (SGK lớp 9), để giảng về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc giáo viên có thể liên hệ bài thơ: Người đi tìm hình của nước (Chế Lan Viên): 
“Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lùi làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương”
Hay cảm xúc của Bác khi đọc Luận cương của Lênin (7/1920) về vấn đề dân tộc và thuộc địa:
“Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc,
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin.
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi””
Nói chung, người thầy phải đa dạng hoá phương pháp giảng dạy, thông qua việc trình bày các sự kiện lịch sử nên có hình ảnh tái tạo quá khứ để tạo biểu tượng và khơi dậy những cảm xúc sâu sắc về lịch sử.
Bài 20, sử 9: Cuộc vận động dân chủ trong những năm 1936 – 1939, giáo viên đưa ra dẫn chứng: Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng Đảng. 
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...
 Ở Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khi nhấn mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa đang lan rộng ra khắp các địa phương trong toàn quốc, giáoviên đưa ra một đoạn trích: 
“Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy.
Nước non ơi hết thảy vùng lên .
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay”
 Trong những tiết học có lồng ghép kết hợp với ngữ văn như vậy, học sinh rất chú ý lắng nghe, khi được gọi lên nhận xét các em đã khái quát được không khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện mình đang học bằng hình ảnh đồng thời còn giúp các em đánh giá đúng về vai trò của quần chúng nhân dân những người làm nên lịch sử – Là động lực chính đưa cách mạng đến thành công.
Đặc biệt là phải nói tới bài 27: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp xâm lược kết thúc”. Để mô tả một cách trực diện cuộc chiến đấu gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của quân dân ta để giành thắng lợi cuối cùng. Giáo viên trích dẫn 1 đoạn thơ trong bài:"Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" của Tố Hữu: như một tôn vinh, như một tượng đài bất tử:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên 
Chiến sĩ anh hùng 
Đầu nung lửa sắt 
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, 
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt 
Máu trộn bùn non 
Gan không núng 
Chí không mòn! 
Và giáo viên có thể đưa ra dẫn chứng về sự hi sinh của những người chiến sĩ Điện Biên có tên tuổi như: Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện...:
Những đồng chí thân chôn làm giá súng 
Đầu bịt lỗ châu mai 
Băng mình qua núi thép gai 
Ào ào vũ bão 
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo 
Nát thân, nhắm mắt còn ôm... 
Đây là những câu thơ không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, tôi nhận thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công lao của các thế hệ đi trước cũng như góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương đất nước trong nhận thức của các em. 
Khi nói về ý nghĩa chiến thắng của Điện Biên Phủ tôi trích hai câu thơ: 
“9 năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Không khí rất sôi nổi, thoải mái đầy hào hứng. Các em tỏ ra thích thú với các sự kiện trong bài và có thái độ rõ ràng khi giáo viên nêu lên dẫn chứng tiêu biểu.
Như vậy, tôi nhận thấy rằng sử dụng lồng ghép kiến thức văn học trong giảng dạy lịch sử không những giúp các em nắm vững nội dung bài nhanh chóng, nhớ lâu hơn mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học tạo điều kiện cho học sinh hình thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình. Không những chỉ gần gũi trong nội dung kiến thức lịch sử và văn học còn có nhiều điểm tương đồng về phương pháp so sánh, miêu tả.
Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến từ 1858 – 1873” (sử 8) mô tả về hoàn cảnh nước ta khi thực dân Pháp xâm lược, lên án trách nhiệm của nhà Nguyễn và nêu cao tinh thần chiến đấu của nhân dân Nam Kỳ. 
Tôi trích dẫn thơ của Nguyễn Đình Chiểu bài “Chạy tây”:
 Một bàn cờ thế phút sa tay
 Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
 	 Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
 	 Mất ổ bầy chim dáo dác bay
 	 Bến Nghé của tiền tan bọt nước
 Ðồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây
 	 Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng?
 	 Nỡ để dân đen mắc nạn này!
Nhìn chung có rất nhiều kiến thức để vận dụng kiến thức văn học trong giảng dạy lịch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay một trích đoạn để cụ thể hoá vấn đề, sự kiện nhằm nêu ra một kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn. Cũng có thể giáo viên chỉ cần liên hệ qua một câu hỏi (có thể ở đầu, giữa hoặc cuối bài) tạo tính liên hệ qua một tác phẩm văn học với một sự kiện lịch sử để gây hứng thú học tập.
Ngoài vận dụng kiến thức của môn ngữ văn, giáo viên còn kết hợp kiến thức địa lí để học sinh nhận thấy vai trò rất quan trọng của các trận chiến là vị trí địa lí.
Ví dụ: khi giới thiệu về Điện Biên Phủ, giáo viên trình chiếu hay chỉ trên lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và giới thiệu về vị trí của Điện Biên Phủ:
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn thuộc phía nam tỉnh Lai Châu, có chiều dài từ 18 đến 20 km; chiều rộng từ 6 đến 8 km; cách Hà Nội khoảng 300 km và cách Luông Phabăng khoảng 200 km theo đường chim bay. Thung lũng Điện Biên nằm gần biên giới Việt - Lào, trên một ngã ba có nhiều tuyến đường quan trọng. Dưới con mắt của các nhà quân sự Pháp, Điện Biên Phủ "là một vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương, mà còn đối với Đông Nam Á. Đó là "một cái chìa khoá để bảo vệ Thượng Lào", một "bàn xoay" có thể đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc.
Qua phần mô tả về vị trí, các em rút ra được: Điện Biên Phủ Là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, có vị trí chiến lược quan trọng.
Giáo viên tiếp tục đưa ra câu hỏi: Với vị trí chiến lược quan trọng như vậy, Pháp- Mĩ đã xây dựng căn cử Điện Biên Phủ như thế nào?
Điện Biên Phủ được xây dựng thành một hệ thống phòng ngự dầy đặc gồm 49 cứ điểm, mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự. Nhiều cứ điểm nằm kề nhau được tổ chức lại thành cụm cứ điểm; mỗi một cụm cứ điểm chính là một trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp, có lực lượng cơ động và hoả lực riêng, có hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào dây thép gai dày đặc và có khả năng độc lập phòng ngự khá mạnh. Mỗi trung tâm đề kháng cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được che chở bằng một hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, bằng một hệ thống vật cản hàng rào hoặc bãi dây thép gai, bãi mìm cùng một hệ thống hoả lực mạnh.. 
Với sự giảng giải của giáo viên các em nhận thấy: Pháp – Mĩ xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu: => Đây là "một pháo đài bất khả xâm phạm" là "máy nghiền thịt khổng lồ" tiêu diệt quân ta ở Điện Biên Phủ.
	Trong dạy học môn Lịch sử luôn gắn liền với việc giáo dục tư tưởng đạo đức học sinh, chẳng hạn khi dạy về các cuộc khởi nghĩa, không thể không nói tới vai trò của nhân dân, nhờ có tinh thần đoàn kết đó mới có được mọi thành công như Hồ Chủ Tịch từng nói:
	Dễ vạn lần không dân dân cũng chịu
	Khó vạn lần dân chịu cũng xong.
	Ví dụ, qua bài 26 lịch sử 8: Khởi nghĩa Yên Thế (1884 - 1913), học sinh thấy được ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân Yên Thế nói riêng và nhân ta nói chung trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời giáo dục học sinh đời đời phải ghi nhớ công ơn của anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám.... Như vậy có thể nói rằng môn giáo dục công dân cũng là môn học luôn gắn liền với môn Lịch sử, nó giúp cho môn Lịch sử hay hơn, hấp dẫn người học hơn.
	* Giải pháp 4:Thân thiện, gần gũi với học sinh
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh các hoạt động ngoại khóa: tham quan học tập ở bảo tàng, các di tích lịch sử ở địa phương, hay đi thăm hỏi động viên những người có công với cách mạng... Bởi qua các hoạt động đó, giúp các em hiểu hơn, nhớ hơn về những anh hùng, những người có công với cách mạng đã xả thân hi sinh vì tổ quốcnhững. Cũng qua đó, thầy trò được trao đổi với nhau những tâm tư, những hiểu biết, những câu chuyện... kèm theo đó là những lời dặn dò, nhắc nhỡ, động viên, khích lệ, giúp các em hình thành nhân cách, tác phong, không còn nhút nhát mỗi khi muốn phát biểu hay hỏi về một nội dung nào. Đồng thời, thông qua hoạt động thầy trò gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn, thân thiện hơn, khoảng cách giữa giáo viên với học sinh cũng được rút ngắn... 
Trên đây là một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong quá trình giảng dạy, còn những yếu tố khác nữa tôi hy vọng và tin tưởng trong một thời gian ngắn, môn Lịch sử sẽ trở về đúng vị trí của nó. 
2.4. Hiệu quả của đề tài đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
 Trong năm học 2016-2017 và năm học 2017- 2018, trong quá trình giảng dạy ở hai khối 8 và 9 để việc giảng dạy môn Lịch sử đạt hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn áp dụng những biện pháp khắc phục những khó khăn trong dạy học lịch sử lớp 8, 9 tại trường THCS Quảng Hưng và kết quả đạt được như sau: khoảng 80% học sinh mạnh dạn đóng góp ý kiến, nắm được nội dung cần học ở lớp cũng như nội dung cần luyện tập ở nhà. Một số học sinh khá giỏi thuộc bài ngay tại lớp. Học sinh đã có thói quen soạn trước những nội dung giáo viên giao ở nhà trước khi đến lớp (kể cả bài tập và câu hỏi từ dễ đến khó ở sách giáo khoa và cả sách bài tập). Khoảng 60% có khả năng trình bày, diễn đạt kiến thức trước cả lớp, giúp phong trào học tập của các em tích cực chủ động, phát biểu sôi nổi trong tiết học. Tái hiện kiến thức nhanh và nhớ kiến thức được lâu. Kết quả cụ thể như sau: `
 Lớp dạy
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
Ghi chú
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp thực nghiệm 8A
39
10
25,6
12
30,8
17
43,6
0
0,0
Năm học 2016- 2017
Lớp thực nghiệm 9A
42
12
28,6
16
38,1
16
38,1
0
0,0
Lớp đối chứng 8B
40
6
15,0
12
30,0
21
52,5
1
2,5
Lớp đối chứng 9B
41
5
12,2
13
31,7
23
56,1
0
0,0
Lớp thực nghiệm 8A
38
14
36,8
14
36,8
10
26,3
0
0,0
Năm học 2017- 2018
Lớp thực nghiệm 9A
40
15
37,5
16
40,0
9
22,5
0
0,0
Lớp đối chứng 8B
39
6
15,4
9
23,1
24
61,5
0
0,0
Lớp đối chững 9B
41
7
17,1
11
26,8
23
56,1
0
0,0
 	
Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Như vậy, để chuẩn bị cho một tiết dạy thật không đơn giản chút nào. Người thầy phải có sự linh hoạt trong tổ chức thảo luận, tranh luận trên lớp học để vừa đảm bảo thời gian tiết học vừa có thể phát huy tối đa tính tích cực, sự sáng tạo của học sinh. Yêu cầu học sinh làm việc cũng có nghĩa là tạo cho các em tác phong làm việc trong thời đại của nền kinh tế tri thức, kinh tế hội nhập, để các em sẵn sàng hoà nhập khi bước vào đời. 
 Trong phạm vi đề tài “Một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong dạy học Lịch sử lớp 8,9 tại trường THCS Quảng Hưng” tôi chỉ mạnh dạn trình bày quan điểm của mình trong dạy học lịch sử 8 và 9, tôi hy vọng sẽ giúp được phần nào cho giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường trung học cơ sở, giảm bớt khó khăn trong dạy học. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy. Vì vậy, chắc hẳn vẫn còn không ít thiếu sót, rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến trao đổi kinh nghiệm của các đồng chí giảng dạy bộ môn, các đồng nghiệp cũng như bạn đọc gần xa để đề tài này được hoàn thiện tốt hơn, có hiệu quả cao hơn khi áp dụng vào thực tế giảng dạy và cùng nâng cao chất lượng của môn học Lịch sử. 
 Con đường phía trước còn rất nhiều khó khăn, thử thách, nhưng tôi tin rằng với sự tận tuỵ, lòng yêu nghề, mến trẻ, người giáo viên sẽ luôn tìm tòi những điều lý thú để đưa thế hệ trẻ trở về quá khứ một cách sống động và hướng đến tương lai là những con người toàn diện.
3.2. Kiến nghị. 
Hiện nay trong các trường đã được cấp rất nhiều các thiết bị dạy học. Tuy nhiên đối với môn Lịch sử thì các đồ dùng thiết bị còn ít, vì vậy muốn đạt được kết quả cao trong bộ môn này theo tôi cần có những yêu cầu:
- Các cơ quan thiết bị trường học cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa hoặc chân dung của các nhân vật lịch sử có công với cách mạng.
- Nhà trường cần trang bị cơ sở vật chất, phương tiện dạy học hiện đại giúp giáo viên dạy tốt môn Lịch sử.
- Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở tất cả các môn trong đó có môn Lịch sử.
Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên có nhiều thời gian đầu tư cho bài dạy đạt hiệu quả tốt nhất.
- Thông qua các lớp chuyên đề phổ biến những sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả để các đồng nghiệp được học hỏi, trao đổi và cũng nên đưa ra những thiếu sót, hạn chế của những sáng kiến kinh nghiệm chưa được để chúng tôi rút kinh nghiệm cho lần sau.
Tôi xin cảm ơn.
 Xác nhận của thủ trưởng đơn vị  Thanh Hóa, ngày 20 tháng 4 năm 2018
 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội 
 dung của người khác.
Người viết
	 Hoàng Thị Vinh 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Lịch sử lớp 8, 9 – Nhà xuất bản giáo dục.
2. SGV Lịch sử lớp 8, 9 – Nhà xuất bản giáo dục.
3. Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử - Phan Ngọc Liên – Trịnh Đình Tùng – Nguyễn Thị Côi - NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
4. Một số vấn đề về Lịch sử - Trường Đại học sư phạm Hà Nội: - NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
	 5. Website: Thư viện giáo án Violet.
6. Một số tài liệu văn học, địa lí.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_khac_phuc_nhung.doc