Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh trong ôn luyện học sinh mũi nhọn môn Lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2
Luật Giáo dục (2005) điều 28.2 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Trong việc ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi việc phát huy năng lực tự học rất quan trọng, giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn học sinh tự học. Sau những năm ôn luyện đội tuyển, tôi thấy học sinh thường học theo lối học thụ động, chỉ biết học thuộc lòng mà không biết đặt vấn đề, giáo viên cung cấp được nội dung nào thì học sinh tiếp thu ít vận động trong tư duy, suy nghĩ. Do vậy, cần tìm ra những biện pháp thích hợp để phát huy được năng lực tự học cho học sinh và giáo viên cũng nhàn hơn trong dạy học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh trong ôn luyện học sinh mũi nhọn môn Lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2

vai trò của người thầy càng giảm dần, cho đến lúc HS hoàn toàn đảm nhận được việc học của mình 2.3.1.2. Các hình thức của hoạt động tự học. Hoạt động tự học được coi là hoạt động tự tổ chức để chiếm lĩnh những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và diễn ra dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau: - Hình thức 1: Tự học có sự điều khiển trực tiếp của người dạy và những phương tiện kỹ thuật trên lớp - Hình thức 2: Tự học không có sự điều khiển trực tiếp của người dạy. - Hình thức 3: Người học tự tìm kiếm tri thức để thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của mình bằng cách tự tìm tài liệu, tự rút kinh nghiệm về tư duy, tự phân tích, đánh giá đây là hoạt động tự học có mức độ khó khăn cao nhất. 2.3.2. Biện pháp thực hiện và ví dụ minh họa. * Biện pháp 1: Xác định mục đích, động cơ của người học. Là một ngôi trường miền núi, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, học sinh không có chí hướng, không có mục tiêu và động cơ trong học tập. Vì vậy, vận động học sinh đi ôn thi đội tuyển quả là một bài “ toán khó” với chúng tôi. Tuy nhiên, đánh vào “tâm lí” tôi đã tìm cách khích lệ học sinh, tạo ra miền đam mê và động cơ để các em không chỉ yêu thích môn học mà còn tự giác trong việc học. Trước hết: tôi lắng nghe học sinh chia sẽ tâm tư nguyện vọng như: học môn sử rất khó, nhiều sự kiện, khó có giải hơn môn Địa hay gia đình em khó khăn phải tranh thủ thời gian giúp bố mẹ hay nhà có em nhỏ phải ở nhà trông em.... Từ đó, tôi phải phân tích, giảng giải để các em hiểu được ý nghĩa và vai trò của việc học. Đặc biệt là không quên nhấn mạnh đến phần thưởng mà các em có thể nhận được nếu đạt được giải( khuyến khích được 500 ngàn, từ giải 3 trở lên được 1 triệu tiền thưởng của trường và khuyến học của huyện và hiệu trưởng sẽ thưởng nóng từ giải 3 với mức thưởng 500 ngàn và tăng theo chất lượng giải) từ đó có thể giúp đỡ được gia đình. Xuất phát từ đó mà trong năm học vừa qua học sinh đội tuyển rất tự giác trong việc tự học để nâng cao hiệu quả và chất lượng trong ôn luyện. Hình ảnh GV gặp gỡ đội tuyển HS giỏi Thứ hai: Đến thăm gia đình – kết hợp với phụ huynh học sinh: Khi tiếp xúc với học sinh trong đội tuyển, tôi được biết là trong đội tuyển có 2 HS thuộc diện hộ nghèo, 3 HS có em nhỏ vì thế để có thời gian tự học ở nhà là quả khó khăn. Vì vậy, tôi có biện pháp và mang lại hiệu quả cao đó là đến thăm, gặp gỡ giai đình HS với mong muốn gia đình tạo điều kiện thuận lợi cho HS trong việc tự học ở nhà. Tâm sự với chúng tôi phụ huynh nói: Chúng tôi cũng muốn cho con cái đi học cho bằng bạn bằng bè, sau này cho nó đỡ khổ, nhưng gia đình quá khó khăn, mong thầy cô thông cảm. Hình ảnh GV gặp gỡ phụ huynh HS Nói đến đây tôi ngắt lời phụ huynh và hứa với gia đình sẽ đề xuất với GV, nhà trường sẽ miễn các khoản đóng góp cho HS và sẽ tạo mọi điều kiện cho em đi học và rằng muốn cho các em thoát nghèo không còn con đường nào khác là con đường học hành và tôi cũng không quên lấy một dẫn chứng tiêu biểu về một HS vượt khó của trường nằm trong đội tuyển sử và nay đã thành công đó là em Lương Thị Chiều em là HS dân tộc Thái có hoàn cảnh gia đình khó khăn mẹ bị bệnh tim ốm đau liên miên bố thì sức khỏe cũng không ổn định không đi làm được nhưng được GV động viên cùng sự giúp đỡ của nhà trường ngay từ năm lớp 11 em đã đạt giải 3 HS giỏi môn lịch sử, năm 12 em là HS giỏi toàn diện và đặc biệt em là 1 trong 56 HS được sở GD và ĐT khen thưởng vinh danh trong năm học 2017 – 2018 với số điểm thi 26 tổng điểm 3 môn và em đậu vào khoa Sử chất lượng cao của Đại học Hồng Đức. Với việc kết hợp nguyên tắc: cứng rắn và mền dẻo, tình thương và trách nhiệm tôi đã động viên được đội tuyển HS của mình tích cực tự giác trong việc học. * Biện pháp 2: Phát huy năng lực tự học thông qua bài học cụ thể. - Đây là một biện pháp tốt để có thể phát huy được năng lực tự học của học sinh. Trước khi cung câp kiến thức cho học sinh tôi thường đặt ra những câu hỏi học sinh cần phải trả lời được trong bài học và HS hoàn thành qua sơ đồ tư duy mà GV đã cho sẵn. - Ví dụ: Khi dạy bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược từ 1858 đến 1873. Trước khi cung cấp kiến thức cho HS giáo viên đặt một số câu hỏi và HS phải trả lời thông qua hoàn thành sơ đồ tư duy: 1. Tình hình nước ta trước khi pháp xâm lược? 2. Tại sao Pháp đánh chiếm Đà Nẵng đầu tiên; cuộc kháng chiến của nhân dân Đà Nẵng diễn ra như thế nào? Kết quả - ý nghĩa. 3. Kháng chiến ở Gia Định và các tỉnh Nam kì như thế nào? Thái độ của triều đình. 4. Rút ra đặc điểm của cuộc kháng chiến ở Nam kì. Và yêu cầu HS làm theo sơ đồ tư duy - Sau khi học sinh làm bài xong tôi yêu cầu từng học sinh lên bảng trình bày theo "sơ đồ tư duy ". Chính trị Tình hình VN trước khi Pháp xâm lược. Bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1858 – 1873 Kinh tế Xã hội TDP đánh chiếm Đà Nẵng - 1858 Thời gian Mục đích Cuộc KC của quân dân ta. Hoàn cảnh Bài 19 Kháng chiến ở Gia Định 1859 Quá trình Nhân dân Cuộc KC của quân dân ta Triều đình Nhân dân 3 tỉnh m.Đ KC sau hiệp ước Nhâm Tuất 1862 Nguyên nhân Hình thức Tiểu biểu Nguyên nhân Nhân dân 3 tỉnh m. Tây KC chống TD Pháp Hình thức Tiêu biểu Đặc điểm Sơ đồ tư duy bài 19 HS lên trình bày theo sơ đồ - Trong quá trình học sinh lên bảng trình bày tôi đã áp dụng kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực: Trước tiên yêu cầu cả nhóm phải thực sự chú ý và giữ im lặng. Sau đó yêu cầu học sinh khác nhận xét phần trình bày của bạn một cách chân thành. Nếu thiếu cần bổ sung, giáo viên quán triệt học sinh không được chê bai bạn mà chỉ góp ý, xây dựng. Học sinh nhận xét bài làm của bạn. - Cuối cùng giáo viên nhận xét và chốt lại kiến thức cho học sinh. Trong quá trình nhận xét tôi chủ yếu đưa ra những lời khen trước, tuyệt đối không chê bai học sinh và yêu cầu học sinh hoàn thiện hơn. Sau đó tôi đưa ra một số câu hỏi khó. Đối với những câu hỏi khó tôi buộc phải có "thần thái'' tốt để học sinh bớt căng thẳng và sợ kiến thức bằng cách chỉ địa chỉ kiến thức ở đâu và nhẹ nhàng chỉ bảo cho học sinh.. * Biện pháp 3: Sử dụng hoạt động nhóm để phát huy năng lực tự học của học sinh. GV hướng dẫn HS hoạt động nhóm HS hoạt động nhóm - Hình thức này được sử dụng khi dạy học những bài có nhiều đơn vị kiến thức, nó được thực hiện trong quá trình nghiên cứu kiến thức mới hay trong củng cố, sơ kết, ôn tập, so sánh. - Trong quá trình làm việc nhóm tôi yêu cầu học sinh phải hợp tác với nhau. Mỗi buổi học thường xuyên thay đổi nhóm trưởng và thư ký, sau khi hoạt động nhóm xong tôi yêu cầu học sinh tự trình bày sản phẩm và trao đổi với nhau. Theo sơ đồ: Bạn trình bày - mình nhận xét - bổ sung - bạn cuối phải chốt được kiến thức cho giáo viên Ví dụ: Sau khi học xong bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược 1858 -1873. GV chia học sinh thành nhóm và hoàn thành vào bảng so sánh theo yêu cầu của GV: Chiến sự, thái độ của nhân dân, thái độ của triều đình. PHIẾU HOẠT ĐỘNG NHÓM Chiến sự Thái độ của triều đình Cuộc kháng chiến của nhân dân Đà Nẵng Gia Định và 3 tỉnh miền Đông 3 tỉnh miền Tây - Khi học sinh làm việc nhóm với nhau sẽ thúc đẩy sự đoàn kết trong nhóm, các bạn biết lắng nghe và trao đổi với nhau một cách tích cực. Tôi quán triệt không đi tranh cãi mà chỉ nhận xét và bổ sung cho nhau, đích cuối cùng là hoàn thành bài học một cách trọn vẹn. Đa phần học sinh có thái độ phản hồi tích cực với nhau và gần như không có sự mâu thuẫn và cách tiếp thu bài dễ hiểu.. * Biện pháp 4: Phát huy năng lực tự học qua khai thác kênh hình (lược đồ) trong SGK. - Khai thác nội dung kênh hình trong SGK là một phần phát huy tính tích cực học tập của học sinh vì trong dạy học lịch sử ngoài kênh chữ còn có kênh hình hỗ trợ để HS có thể học tập một cách tốt nhất. Làm thế nào để học sinh tìm hiểu kiến thức qua kênh hình, từ đó giúp các em nắm chắc, nhớ lâu, tự giác chủ động lĩnh hội kiến thức, tăng thêm sự hứng thú trong học tập. - Ví dụ: khi dạy bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) thì việc sử dụng lược đồ chiến tranh thế giới thứ 2 là biện pháp hiêu quả nhất để học sinh nắm được nhanh nhất diễn biến của chiến tranh thế giới. + Bước 1: GV cho HS quan sát lược đồ diễn biến của chiến tranh thế giới thứ 2 (màu sắc, hướng tiến công....) và xác định nội dung cần khai thác qua hình ảnh + Bước 2: HS tự tìm hiểu nội dung sau khi GV hướng dẫn quan sát lược đồ. + Bước 3: Học sinh lên trình bày – bạn bổ sung + Bước 4: GV nhận xét – bổ sung. Hình ảnh HS khai thác kênh hình trong SGK HS lên trình bày theo lược đồ * Biện pháp 5: Sử dụng hoạt động cặp đôi - Hoạt động này tôi thường sử dụng trong ôn luyện phần điền vào bảng sự kiện nằm trong cấu trúc của đề thi HS giỏi. Trong mỗi bài học này tôi thường giao nhóm gồm 2 HS mỗi bạn tìm một dữ kiện (thời gian hoặc sự kiện) theo hình thức hỏi đáp. - Ví dụ: Khi dạy bài 31: “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”, GV sẽ lập 1 bảng sự kiện yêu cầu HS hoàn thành bảng sự kiện. Bảng sự kiện Hoạt động cặp đôi của HS - Sau khi HS điền xong GV sẽ gọi từng cặp nhóm 1 lên trình bày và để phát huy tốt nhất trong phần học này tôi sẽ phân thời gian, các nhóm sẽ thực hiện theo kiểu trò chơi tiếp sức. Nhóm nào làm nhanh và đúng nhất sẽ có phần thưởng (chủ yếu là gói bim bim), nhưng cũng khích lệ HS rất nhiều và tôi đã đạt được kết quả khả quan khi trong câu điền vào bảng sự kiện của kì thi HS giỏi cấp tỉnh vừa qua 3/HS đạt điểm tuyệt đối 3 điểm, 2 HS đạt 2,75 điểm. Theo quan điểm của tôi đây là phần thi dễ lấy điểm nhất và đạt điểm tuyệt đối nên HS phải hết sức cố gắng ở nội dung này. HS trình bày bảng sự kiện * Biện pháp 6: Tự kiểm tra, tự đánh giá của HS - Đây là một biện pháp mới mà trong năm học vừa qua tôi áp dụng trong quá trình ôn luyện và thấy có hiệu quả rất cao. Sau khi học xong một bài tôi thường giao nhiệm vụ cho HS. Mỗi HS sẽ tự tìm ra trong bài những câu hỏi và giao cho bạn mình làm, sau đó tự chấm bài và nhận xét, phần cuối cùng là GV sẽ nhận xét. Để làm được điều này đòi hỏi bạn đặt câu hỏi phải nắm vững kiến thức mới có thể đưa ra được câu hỏi cho bạn mình. Bạn trả lời thì cũng phải nắm vững kiến thức thì mới đáp ứng được yêu cầu của đối phương. Hệ thống câu hỏi HS đặt cho bạn - Đối với phương pháp này tôi thường yêu cầu HS kết hợp với kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực trong quá trình nhận xét, đánh giá bài của bạn nghiêm cấm việc chê bai, dè biểu mà phải nhận xét trên tinh thần góp ý để tất cả các bạn cùng tiến bộ. HS nhận xét bài làm của bạn 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục. - Việc áp dụng những biện pháp trên đã góp phần không nhỏ vào nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn. - Thực hiện đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. 2.4.2. Đối với bộ môn lịch sử - Nếu như trong các năm học trước: + Năm học: 2013 – 2014: 4 giải khuyến khích + Năm học: 2014 – 2015: 1 giải ba + Năm học: 2016 - 2017: 1giải khuyến khích + Năm học: 2017 – 2018: 1 giải ba. + Năm học: 2018 – 2019: 1 giải nhì, 2 ba và 1 khuyến khích Đặc biệt, năm học 2018 – 2019, lần đầu tiên bộ môn lịch sử có 1 giải nhì. Với kết quả đạt được như vậy nên tôi được vinh dự được nhà thưởng nóng vì có thành tích đột phá trong ôn luyện HS giỏi. Cũng trong năm học này các trường THPT của 2 huyện Nông Cống và Như Thanh tổ chức kì thi giao lưu học sinh giỏi khối 10 lần đầu tiên HS môn sử đạt giải nhất (cả 7 trường có 2/40 HS đạt giải nhất) đây cũng có thể xem là thành tích nổi bật làm bước đệm cho năm học sau đạt kết quả cao trong kì thi cấp tỉnh. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận. Việc áp dụng "Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của HS trong ôn luyện mũi nhọn môn lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2" là rất cần thiết và quan trọng trong việc ôn luyện học sinh giỏi môn Lịch sử. Đối với học sinh lớp 11 phương pháp này có tác dụng thúc đẩy tính tích cực, tự giác trong học tập, giúp các em chủ động, sáng tạo, độc lập tự mình phân tích khai thác kiến thức. Ngoài việc chủ động trong học tập, các em còn biết tự mình trau dồi kĩ năng sống cho bản thân, biết lắng nghe và phản hồi tích cực, biết tự tin đứng trước đám đông. Giáo viên có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc tìm ra phương pháp dạy học phù hợp, phát huy được năng lực của HS để đạt kết quả cao trong ôn luyện Từ kết quả đạt được như trên theo tôi là rất khả quan nên trong thời gian tới sẽ tiếp tục áp dụng “Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của HS trong ôn luyện HS mũi nhọn môn lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2" trong quá trình ôn luyện học sinh giỏi. 3.2. Những kiến nghị - Từ những việc làm được cũng như những tồn tại do điều kiện khách quan tôi có một số kiến nghị sau đây: - Đề nghị ban giám hiệu, ban chuyên môn, sở giáo dục và đào tạo quan tâm nhiều hơn nữa đến những vấn đề có liên quan đến đổi mới phương pháp và kĩ thuật trong dạy học. - Tạo mọi điều kiện về thời gian, kinh phí và đặc biệt là tinh thần tới giáo viên và học sinh ôn thi trong đội tuyển. - Có chế tài khen thưởng kịp thời và cao hơn nữa để giáo viên và học sinh có thêm động lực. 3.3. Rút kinh nghiệm - Giáo viên ôn đội tuyển cần phải linh hoạt, rõ ràng về thời gian, cách thức tổ chức, cách khai thác kiến thức để học sinh có thể rèn luyện thêm phương pháp tự học - Cần phải thật nhịp nhàng, uyển chuyển, khéo léo trong tất cả các khâu nếu không kết quả sẽ ngược lại. - Trong quá trình thực hiện cần phải có "niềm tin và hy vọng" bởi chỉ có "niềm tin" mới cho chúng ta "đòn bẩy" để đi tiếp. Trên đây là việc "một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của HS trong ôn luyện HS mũi nhọn môn lịch sử trường THPT Như Thanh 2 " mà tôi đã áp dụng trong thời gian qua. Với trình độ và kinh nghiệm có hạn cá nhân xin mạo muội đưa ra một số biện pháp trên, rất mong nhận được sự đóng góp chân thành từ đồng nghiệp. Xin trân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hoá, ngày 10 tháng 05 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người thực hiện Nguyễn Thị Thủy DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dạy và học tích cực – Bộ giáo dục và đào tạo - Dự án Việt - Bỉ. 2. Các tài liệu có liên quan đến lí luận dạy học. 3. Sách giáo khoa lịch sử lớp 10,11- Bộ giáo dục 4. Tài liệu về đổi mới kiểm tra đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học- Sở GD và ĐT Thanh Hoá. 5. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử 10,11 - Nhà xuất bản ĐHSP 6. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học phổ thông - Nhà xuất bản giáo dục - Bộ giáo dục và đào tạo - năm 2007. DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thủy Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THPT Như Thanh 2 - huyện Như Thanh - Thanh Hóa. TT Tên đề tài SKKN Cấp đánh giá xếp loại (Ngành GD cấp huyện/tỉnh; Tỉnh...) Kết quả đánh giá xếp loại (A, B, hoặc C) Năm học đánh giá xếp loại Dạy học một số thành tựu văn hóa thông bài học lịch sử 10 nhằm giáo dục truyền thống cho HS ở trường THPT Như Thanh 2 trong thời kì hội nhập. Cấp tỉnh C 2014-2015
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_phat_huy_nang_lu.doc