Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954” (Lịch sử 9 - THCS)
Lịch sử là một môn khoa học, việc nghiên cứu giảng dạy lịch sử ở trường Trung học cơ sở gắn liền với nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, phục vụ các chế độ chính trị khác nhau.
Thời Hy Lạp cổ đại, các nhà sử học đã khẳng định “lịch sử là thầy dạy của cuộc sống”, “lịch sử là bó đuốc soi đường đi tới tương lai”. Các nhà tư tưởng thời trung đại coi lịch sử là “triết lý của việc noi gương”. Trong lịch sử thế giới hiện đại, nhiều nhà chính trị đồng thời cũng là nhà sử học và họ đã sử dụng tri thức lịch sử để trị nước, giúp đời.
Vì vậy trong các bộ môn ở trường Trung học cơ sở thì môn Lịch sử có một vị trí vô cùng quan trọng. Bởi lịch sử giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, tình đoàn kết quốc tế. Đồng thời học Lịch sử còn bồi dưỡng năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống cho các em …
Tuy nhiên trong những năm gần đây, vị trí cũng như vai trò của môn Lịch sử lại đang bị một bộ phận không nhỏ phụ huynh và học sinh thờ ơ xem nhẹ. Các em quan niệm Lịch sử là môn phụ, khó thuộc, khó nhớ các sự kiện nên chỉ học phó để lấy điêm mà thôi.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954” (Lịch sử 9 - THCS)

khi dạy mục I. 1 Hoàn cảnh lịch sử mới và I.2 “Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950”, trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu chiến dịch, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi gợi mở khi giảng từng nội dung như: Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp bàn mở chiến dịch Biên giới. Lược đồ chiến dịch Biên giới thu - đông 1950 - Qua quan sát lược đồ, em hãy xác định địa bàn của chiến dịch? - Tại sao ta quyết định đánh Đông Khê để mở đầu chiến dịch? Giáo viên đưa ra các câu gợi mở trên trước các nội dung cần giảng. Tùy từng đối tượng học sinh để chúng ta sử dụng các câu hỏi gợi mở, nếu như học sinh không trả lời được các câu hỏi trên, chúng ta có thể gợi ý những câu hỏi nhỏ hơn trong từng nội dung: Hoặc đối với Lược đồ chiến dịch Điên Biên Phủ (1954), được sử dung khi dạy mục 2. “Chiến dịch lịch sử Điên Biên Phủ (1954)” nhằm cụ thể hóa vị trí Điện Biên Phủ cũng như cách bố trí lực lượng của địch và diễn biến. Giáo viên có thể gợi mở cho học sinh với các câu hỏi sau: - Quan sát lược đồ, nhận xét vị trí Điên Biên Phủ? - Tại sao địch quyết định xây dựng Điên Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh? - Biểu hiện nào chứng tỏ điều đó? - Em suy nghĩ như thế nào về cuộc chiến đấu của ta ở Điện Biên Phủ? Với các câu hỏi gợi mở trong từng phần giảng học sinh sẽ phải suy nghĩ một cách tích cực, chủ động trong hoạt động nhận thức để tìm hiểu các nội dung đưa ra. - Sử dụng tranh ảnh kết hợp với miêu tả, phân tích, đàm thoại. Tranh ảnh tạo được biểu tượng, góp phần cụ thể hoá kiến thức, có tác dụng làm cho học sinh yêu thích môn lịch sử. Do đó, để sử dụng tranh ảnh lịch sử có hiệu quả, phát huy được tính tích cực hoạt động của học sinh cần kết hợp với miêu tả có phân tích, đàm thoại. Ví dụ với bức ảnh hình 49 “Các đại biểu dự Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt (1951)” Bài 26 “Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953)”, bức ảnh này được sử dụng khi dạy mục III “Hậu phương kháng chiến phát triển về mọi mặt” để cụ thể hóa sự kiện thống nhất mặt trận Việt Minh và hội Liên Việt. Những đại biểu tham dự Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt Trước hết giáo viên giới thiệu về bức ảnh ghi lại hình ảnh các đại biểu tham dự đại hội thống nhất mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt rồi hướng dẫn học sinh quan sát từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi mở để học sinh trả lời: - Quan sát trang phục, nét mặt của những người trong ảnh, chúng ta thấy thành phần tham dự đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt như thế nào? Học sinh trao đổi đàm thoại qua những câu gợi mở, quá trình đó sẽ giúp các em có biểu tượng ban đầu về các thành phần tham gia. Sau đó giáo viên miêu tả khái quát: Trong ảnh là quang cảnh ở bên ngoài hội trường. Ở trên cửa ra vào hội trường có gắn tấm biển đề hàng chữ “Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt”, có 29 đại biểu chụp ảnh kỉ niệm. Quan sát bức ảnh ta thấy rõ các đại biểu tham dự gồm đủ mọi giới: phụ nữ, nam giới, người già, người trẻ, có cả những người theo tôn giáo (phía trái bức ảnh), những người dân tộc thiểu số (bên phải bức ảnh) Chủ tịch Hồ Chí Minh là người ngồi giữa. Giáo viên tiếp tục gợi mở “Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi ở giữa nói lên điều gì?”. Điều đó nói lên Bác và Đảng là trung tâm của khối đại đoàn kết dân tộc, tổ chức lãnh đạo khối đại đoàn kết. Cuối cùng giáo viên đưa ra câu hỏi: “Qua đó em có suy nghĩ gì về mục đích tổ chức mặt trận của Đảng?”. Mặt trận Liên Việt là mặt trận dân tộc thống nhất, đoàn kết tất cả các đoàn thể, tôn giáo, đảng phái, các cá nhân yêu nước nhằm thắt chặt khối đại đoàn kết toàn dân để kháng chiến, kiến quốc thắng lợi. Tuyên ngôn của đại hội ghi rõ mục đích của Mặt trận Liên Việt là tiêu diệt thực dân Pháp, đánh bại can thiệp Mĩ, trừng trị Việt gian phản quốc, thực hiện một nước Việt Nam độc lập, thống nhất dân chủ, tự do, phú cường và góp sức vào bảo vệ nền hoà bình dân chủ thế giới. Tóm lại việc sử dụng đồ dùng trực quan cho học sinh lĩnh hội kiến thức mới không chỉ làm cho kiến thức học sinh tiếp thu trở nên sâu sắc mà còn giáo dục cho các em những tư tưởng, tình cảm đúng đắn và phát triển kĩ năng quan sát, phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng lịch sử của các em. b. Sử dụng đồ dùng trực quan để tổ chức học sinh củng cố kiến thức. Sử dụng đồ dùng trực quan trong củng cố kiến thức đã học cho học sinh mang lại nhiều hiệu quả hơn so với việc củng cố kiến thức bằng trao đổi đàm thoại, nêu và trả lời câu hỏi đơn thuần. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong củng cố kiến thức gây được hứng thú học tập, giúp các em khắc sâu kiến thức. - Đối với lược đồ - bản đồ, để củng cố kiến thức cho học sinh giáo viên có thể thông qua nhiều hình thức khác nhau: + Dựa vào bản đồ để nêu và trả lời các câu hỏi, hướng dẫn học sinh quan sát kĩ hơn và nêu lên các điểm mới. + Dựa vào bản đồ để trình bày lại những kiến thức đã học một cách phong phú, cụ thể, sinh động hơn hoặc sử dụng bản đồ nhưng dưới dạng bản đồ “câm”, yêu cầu học sinh điền đầy đủ các kí hiệu rồi dựa vào đó để trình bày lại các vấn đề đã học. Ví dụ, giáo viên sử dụng bản đồ “Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950” treo lên bảng, yêu cầu học sinh dựa vào bản đồ để trình bày lại diễn biến của chiến dịch. Trong khi học sinh trình bày, giáo viên yêu cầu học sinh cả lớp chú ý theo dõi để nhận xét và bổ sung cho phần trình bày của bạn. - Hoặc giáo viên sử dụng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức cho học sinh hay sơ kết bài hoc. Ví dụ khi dạy bài 27, Cuộc kháng chiến toàn quốc khống thực dân Pháp kết thúc 1953-1954, ở phần củng cố giáo viên sử dụng bản đồ tư duy sau: ` Giáo viên cũng có thể sử dụng bản đồ trên nhưng dưới dạng bản đồ “câm”, yêu cầu học sinh điền các kí hiệu lên bản đồ cho đầy đủ rồi dựa vào bản đồ để trình bày lại diễn biến chính của chiến dịch. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên có thể nhận xét, cho điểm hoặc khen trước lớp. - Đối với việc sử dụng tranh ảnh lịch sử để củng cố kiến thức đã học là một việc làm tương đối khó, do vậy giáo viên nên kết hợp với hệ thống câu hỏi. Qua đó giúp các em nắm vững chắc, hiểu sâu, nhớ lâu hơn những kiến thức đã học, đồng thời rèn luyện kĩ năng quan sát, miêu tả, phân tích và rút ra kết luận lịch sử cho học sinh. Ví dụ, để củng cố kiến thức của các em về Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương khi dạy bài 27, giáo viên có thể sử dụng bức ảnh “Quang cảnh Hội nghị Giơnevơ”. Giáo viên cho học sinh quan sát một lần nữa bức ảnh và học sinh dựa vào kiến thức đã học trả lời các câu hỏi của giáo viên: Toàn cảnh hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu (phải) và tướng Pháp Đen-thây (trái) ký Hiệp định Giơ-ne-vơ tháng 7/1954. (Ảnh TL, TNN st) + Qua quan sát em thấy Hội nghị được tổ chức như thế nào? + Hội nghị Giơnevơ đang thảo luận vấn đề gì? + Em có nhận xét gì về Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương? + Hiệp định Giơ ne vơ có ý nghĩa như thế nào? c. Sử dụng máy chiếu trong dạy học lịch sử. Sử dụng máy chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử. Một số tranh ảnh, phần bài học quan trọng giao viên có thể pho to hoặc viết vào giấy trong sau đó đưa lên máy chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi được học trên máy chiếu . Ví dụ : Khi dạy bài 27, Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953-1954). Tôi có thể phóng to hình 52. Bộ Chính trị trung ương họp chủ trương tác chiến Đông – Xuân 1953-1954, và hình 54 . Lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, đưa lên máy chiếu để minh họa cho học sinh hiểu được tầm quan trọng và có tính chất quyết định sự lãnh đạo của Đảng đối với thắng lợi của cách mạng. Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương tác chiến Đông - Xuân 1953-19544 Như vậy việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử nói chung, phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 nói riêng, là việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khoá . Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy – học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với phương pháp dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học vào từng bài phải có sự nhận xét , đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn . Điều cuối cùng là muốn thực hiện tốt điều này, đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà : Có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe , thông minh sáng tạo đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá . 4. Những kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài. Trong thời gian qua tôi đã vận dụng những kinh nghiệm này vào các tiết dạy, bản thân tôi nhận thấy phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới. Học sinh hứng thú trong học tập, tích cực, chủ động và sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kỹ năng. Không khí học tập sôi nổi, học sinh yêu thích môn học hơn và đạt được kết quả cao trong việc kiểm tra đánh giá học sinh. Đặc biệt bản thân đã áp dụng một số phương pháp nhắm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử một cách linh hoạt đối với từng bài, khối học và đã thu được kết quả cao trong học tập và đánh giá học sinh. Hàng năm có nhiều học sinh tự nguyện tham gia thi học sinh giỏi cấp huyện và tỉnh đạt giải cao. * Kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tàì cho học sinh khóa sau (Năm học 2015-2016) HS khối 9 Giỏi Khá Trung bình Yếu kém 38 5 13,1% 15 39,5% 15 39,5% 3 7,9% 0% Qua bảng số liệu cho thấy, học sinh đạt học lực giỏi và khá tăng lên, trung bình và yếu giảm xuống, không còn tỷ lệ học sinh kém. * Sau khi áp dụng giải pháp này, với câu hỏi kiến thức như khóa trước( 2014-2015), học sinh khóa sau (2015-2016) đạt được kết quả cao hơn. Ví dụ: Sự kiện nào đánh dấu bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp? A: Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947. B: Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16. C: Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950. Kết quả: 5% chọn đáp án A; 10% chọn đáp án B và 85% chọn đáp án C. Đáp án đúng là C- Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ. 1. Kết luận. Sau khi áp dụng sáng kiến này, bản thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau: Trong mỗi tiết dạy giáo viên cần phải nêu lên một số yêu cầu của tiết, mục của bài học, sau đó cung cấp thông tin và phân bố thời gian hợp lý để học sinh nắm bắt thông tin. Giáo viên đặt và sử dụng linh hoạt các câu hỏi phù hợp với nội dung của bàidạy, tùy theo khối, lớp và đối tượng học sinh mà vận dụng. Khi nêu câu hỏi giáo viên cố gắng sử dụng câu hỏi ngắn gọn, đủ ý, đơn giản, dễ hiểu gợi sự suy nghĩ và tư duy của học sinh, không nên sử dụng câu hỏi “có” hay “không”, “đúng” hay “sai” mà phải sử dụng câu hỏi phát huy tính độc lập, tư duy ở các em. Khi tổ chức học sinh tiếp nhận thông tin, giáo viên chú ý sử dụng câu hỏi gợi mở được chuẩn bị kỹ ở nhà. Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu tài liệu tham khảo để xây dựng các câu hỏi cho tiết dạy sinh động và vận dụng linh hoạt để giải quyết nhiệm vụ ở mỗi bài học. Giáo viên cần kết hợp các phương tiện khác nhau trong hoạt động dạy học như: Đồ dùng trực quan, tranh ảnh, bản đồ và các phương tiện khác khi lên lớp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả của giờ học. Trong quá trình giảng dạy, ngôn ngữ nói phải chuẩn, truyền cảm, không quá nhanh và quá chậm, phải có tinhá lôi cuốn, hấp dẫn, trình bày phải có điểm nhấn mạnh, tránh chung chung. Khi đặt câu hỏi không nên đặt câu hỏi quá dễ làm cho học sinh thỏa mãn, đi đến chủ quan về vốn kiến thức của mình. Cần tạo cơ hội cho học sinh cả lớp trả lời, thảo luận nhóm, không làm nặng nề giờ học, tạo không khí nhẹ nhàng, thoải mái nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt. Là giáo viên dạy môn lịch sử phải tìm tòi, sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế đồ dùng dạy học, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, tự bồi dưỡng, tự học đặc biệt phải bồi dưỡng kiến thức về cách vẽ và sử dụng bản đồ một cách khoa học, chính xác. Triệt để sử dụng các biện pháp dạy học tính cực nhằm thu hút sự hứng thú của học sinh. 2. Kiến nghị. Qua thực tế dạy môn lịch sử ở trường trung học cơ sở bản thân tôi thấy hiện nay các nhà trường đã được cấp rất nhiều đồ dùng dạy học. Tuy nhiên đối với môn Lịch sử thì các đồ dùng và thiết bị vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu môn học. Muốn tạo được hứng thú học tập cho học sinh và đạt kết quả cao, bản thân tôi có một số ý kiến đề xuất : Nhà trường cần phải có đầy đủ tranh, ảnh về các di tích lịch sử và văn hóa, chân dung các nhân vật lịch sử, người có công với cách mạng. Đồng thời thường xuyên bổ sung những tư liệu, tài liệu có liên quan đến hoạt động dạy và học môn lịch sử. Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở tất cả các môn học trong đó có môn Lịch sử. Hàng năm nhà trường cần có kế hoạch mua bổ sung thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học trong nhà trường. Môn học lịch sử cần có những buổi học ngoại khóa để các em mắt thấy, tai nghe, hiểu, biết sâu sắc các nhân vật, di tích lịch sử, đặc biệt là lịch sử địa phương. Vì vậy nhà trường cần tạo điều kiện để học sinh có những buổi học ngoại khóa đạt kết quả cao. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình giảng dạy môn lịch sử. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong quá trình nghiêu cứu nhưng do thời gian có hạn và khả năng còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp, sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệm để tôi ngày càng hoàn chỉnh hơn trong việc nghiên cứu và vận dụng kinh nghiệm vào thực tiễn. Xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ của mình viết, ,không sao chép nội dung của người khác. Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017 Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách giáo khoa Lịch sử lớp 6 - NXB Giáo dục. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 9 - NXB Giáo dục. Sách giáo viên Lịch sử 9 - NXB Giáo dục. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 - NXB Chính trị quốc gia 1995. Lịch sử nước ta của Hồ Chí Minh. Tranh, Ảnh, bản đồ - Tư liệu Thông tấn xã Việt Nam. Một số chuyên đề Lịch sử Việt Nam - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo .
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_phat_huy_tinh_ti.doc