Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát triển tính tích cực học sinh trong dạy học phần Lịch sử địa phương

Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng được đặt ra từ những năm 60 của thế kỉ XX, trở thành phương hướng của cuộc cải cách giáo dục những năm 80 và được khẳng định trong Luật giáo dục. Đây là một nguyên tắc được quán triệt trong mọi hoạt động, mọi khâu của quá trình dạy học. Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức đúng rằng trong quá trình dạy học học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình nhận thức, khắc phục tình trạng dạy học “lấy giáo viên làm trung tâm” đã tồn tại trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên cũng không nên quá nhấn mạnh vào vai trò tự học, tự nhận thức của học sinh mà coi thường vai trò của giáo viên. Như một nhà giáo dục Đức cho rằng: “Đối với chúng tôi, việc dạy học tập trung vào học sinh không phải là một kiểu dạy học lý tưởng, mà nếu thực hiện nó thì người ta có được tất cả, hoặc không làm thì thu về số không. Dạy học tập trung vào học sinh là một quá trình, trong đó thầy và trò cùng nhau làm giảm dần mối quan hệ điều khiển, chỉ huy và bị điều khiển, bị chỉ huy một chiều. Thầy và trò cùng nhau học tập, làm cho tất cả những gì thuộc về thuật ngữ “dạy học” đều được vận hành. Nó tạo ra mối quan hệ xã hội không có sự sợ hãi, chia sẻ và thông hiểu lẫn nhau”.
doc 19 trang SKKN Lịch Sử 15/10/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát triển tính tích cực học sinh trong dạy học phần Lịch sử địa phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát triển tính tích cực học sinh trong dạy học phần Lịch sử địa phương

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm phát triển tính tích cực học sinh trong dạy học phần Lịch sử địa phương
i sưu tầm tranh ảnh, đặt câu hỏi đặc điểm địa hình, vị trí, diện tích, khí hậu, dân cư, phong trào cách mạng của ông cha tại địa phương. Trên lớp GV sử dụng máy chiếu để các em trình chiếu hình ảnh, bản đồ rồi các nhóm đặt câu hỏi trả lời. 
Có thể nói, dạy và học theo dự án khuyến khích sự sáng tạo nơi các em, giúp các em huy động kiến thức tổng hợp để thực hiện dự án, đồng thời phát triển đa dạng các kĩ năng như phân tích, tổng hợp, lập kế hoạch triển khai, đánh giá Với phương pháp này, các em sẽ tự tin trong quá trình học tập và cả trong cuộc sống sau này.
2.3.5. Tiến hành các hoạt động ngoại khóa
- Thi vẽ tranh, đọc thơ, ngâm thơ, kể chuyện, tường thuật lại các cuộc khởi nghĩa ở địa phương.
 Cách dạy bằng hình thức này vừa gây được húng thú cho học sinh vừa phát huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo ở các em. Quan trọng hơn nữa là giúp các em thể hiện được năng khiếu của chính mình, giúp các em tự tin hơn, hoà nhập vào tập thể lớp mà không thấy tự ti về sức học của mình. Nhất là học sinh vùng núi cao như nơi tôi đang giảng dạy, tôi thấy nhiều em còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn xây dựng bài, đóng góp ý kiến cho bạn và trong các hoạt động tập thể. Áp dụng hình thức dạy học này, tôi thấy các em khắc phục được phần nào sự nhút nhát, tự ti bởi nhiều em học sinh có dịp thể hiện mình ở các lĩnh vực: Hội hoạ, kể chuyện về các cuộc khởi nghĩa, ngâm thơ ca ngợi các anh hùng, các nữ tướng...
* Giáo viên có thể cho học sinh thi ngâm thơ, đọc thơ những bài ca dao, bài thơ, câu thơ viết ca ngợi các anh hùng ở địa hương gắn với tiết lịch sử mà cả lớp đang học.
 * Giáo viên cho học sinh có năng khiếu hội hoạ lên vẽ những hình ảnh tiêu biểu (Danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, vẽ chân dung các anh hùng ở Thanh Hoá, vẽ các lược đồ khởi nghĩa...) biểu tượng của quê hương và cho các em đặt lời bình cho những bức vẽ đó.
 	Cụ thể: HS ở các tổ( nhóm) cử đại diện tổ mình lên dự thi vẽ tranh, bức tranh của tổ (nhóm) nào đẹp, đầy đủ chi tiết và bố cục, sẽ được đánh giá cao hơn các nhóm khác.
 Ví dụ :
 - HS học tiết :Khởi nghĩa Bà Triệu, các em vẽ hình ảnh Bà Triệu cưỡi voi ra trận...hoặc học sinh vẽ lăng Bà Triệu ở núi Tùng (Thanh Hoá) và các em tự viết lời bình cho bức tranh, thay mặt cho tổ đọc lên ý tưởng đó.
 - Đối với HS khối lớp 11 GV có thể cho các em thi vẽ: “Công sự phòng thủ Ba Đình”
* HS có thể thi về tường thuật lại một cuộc khởi nghĩa ở địa phương.
Ví dụ: GV cho HS thi giữa các tổ, với nội dung thuật lại cuộc khởi nghĩa Hà Văn Mao ở Bá Thước trong phong trào Cần vương...
 Từ những hình thức thi ở trên, giờ học sẽ cuốn hút HS và tạo nên sự hứng thú nơi các em, tiết học sẽ sôi nổi và căn bản HS sẽ tiếp cận với bài học được tốt hơn.
- Trò chơi đố kiến thức:
 Đây là hình thức ngoại khóa gọn nhẹ, dễ tổ chức mà hấp dẫn học sinh. Những trò chơi này đồi hỏi các em phát huy phát huy năng lực tư duy, trí thông minh giải quyết vấn đề đặt ra. Hình thức này được sử dụng rộng rãi trong các chương trình như “Âm vang xứ Thanh”, “Đường lên đỉnh Ôlympia”. Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi ô chữ. Những kiến thức trong các ô chữ là tên các địa danh gắn với bài học lịch sử địa phương mà HS ở tiết đó các em học, các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, những tác phẩm văn học viết về các cuộc khởi nghĩa, các anh hùng đánh thắng giặc ngoại xâm, các nữ tướng... nổi tiếng của địa phương. Cũng có thể cho học sinh bắt thăm trả lời các câu hỏi về kiến thức liên quan đến bài học lịch sử địa phương.
Giáo viên chuẩn bị ô chữ trước, có thể cắt dán giấy màu, hay kẻ sẵn ra bảng phụ. Ô chữ có hàng dọc và hàng ngang, yêu cầu HS lên bảng điền đúng hoặc dán chữ đúng trên giấy màu.
Hoặc tổ chức các trò chơi theo hình thức Rung chuông vàng theo hệ thống câu hỏi trong bộ câu hỏi cuộc thi Tìm hiểu Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương tạo không khí sôi động, thu hút cả GV và HS tham gia.


Hình ảnh: Thi Rung chuông vàng với chủ đề "990 năm Danh xưng Thanh Hóa" tại trường THPT Bá Thước – Thanh Hóa tháng 3 năm 2019
- Dạy học tại thực địa
 	Đây là hình thức tiến hành một bài lịch sử địa phương tại thực địa kết hợp bài nội khóa với các hoạt động ngoại khóa. Hình thức dạy học này chưa được phổ biến vì đòi hỏi nhiều công phu, thời gian, yêu cầu giáo viên nắm vững những sự kiện lịch sử sẽ tiến hành thì việc dạy và học mới đạt kết quả cao. Nó giúp học sinh “trực quan sinh động” những di tích của quá khứ, thu thập những tài liệu “sống”, chân thực, gây cho học sinh những ấn tượng mạnh mẽ, những cảm xúc sâu đậm củng cố kiến thức đang học và bồi dưỡng về tư tưởng, phát triển về kỹ năng. Vì vậy phạm vi và nội dung của bài học thực địa phong phú và đa dạng (vì kết hợp với hoạt động ngoại khóa, thực hiện các bài tập nhận thức...trong khuôn khổ yêu cầu của một bài nội khóa) 
Ví dụ: 
Với HS của tôi là trên địa bàn huyện Bá Thước có thể tham quan đền thờ Hà Công Thái giúp các em hiểu biết thêm về dòng họ quan lang Hà Công ở Bá Thước đặc biệt nhân vật Hà Văn Mao. Ông cùng các nhà lãnh đạo phong trào Cần Vương ở Thanh Hoá như Trần Xuân Soạn, Phạm Bành, Đinh Công Tráng đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự và mặc nhiên thành những người lãnh đạo chủ chốt của phong trào Cần Vương trên địa bàn. 
Cụ thể: Bắt đầu giáo viên tập trung học sinh trước khu di tích và giới thiệu bài học gắn liền giới thiệu về khu di tích ( kết hợp sử dụng bản đồ, hiện vật lịch sử để học sinh quan sát và hình dung). Phần này chỉ tiến hành 5 đến 10 phút sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát toàn cảnh khu di tích chú ý địa hình thế núi, thế sông và tổ chức học sinh thảo luận “ Em biết gì về lễ hội Mường khô và nhân vật Hà Công Thái, Hà Văn Mao”. Trong khoảng 40 phút giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát di tích, nêu các vấn đề các em thảo luận, giải đáp thắc mắc. Việc này sẽ giúp các em nắm vững nội dung bài học.
 Kết thúc buổi học giáo viên yêu cầu học sinh viết bài tường thuật, miêu tả lại về đền thờ Hà Công Thái cũng như vai trò Hà Văn Mao trong phong trào Cần vương ở Thanh Hóa cuối thế kỉ XIX. 


Lễ hội Mường Khô tri ân Quận công Hà Công Thái và các vị tướng dòng họ Hà đã có công dẹp loạn ở vùng biên giới phía Tây tỉnh Thanh vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX
 Như vậy hình thức học tập hoạt động ngoại khoá có lợi tạo tâm lí thoải mái theo phương châm “ Học mà chơi, chơi mà học”, tạo cho các em học sinh những kĩ năng giao tiếp với môi trường bên ngoài, có năng lực quan sát, giúp học sinh phát triển toàn diện hơn. Nhưng hình thức học tập này có thực hiện được tốt hay không chắc chắn còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố địa lý, điều kiện sống. Nói như vậy, không phải là không thực hiện được. Nếu cố gắng chúng ta vẫn tổ chức được các hoạt động ngoại khoá như thế. Tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi những điều bất cập.
 2.3.6. Sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề
Đây cũng là phương pháp không thể thiếu trong tiết học lịch sử địa phương. Học sinh phát biểu, nêu ý kiến, nhận xét về nội dung lịch sử địa phương. Mỗi học sinh có mỗi cách nhận xét, đánh giá. Giáo viên sẽ là người định hướng, rút ra nhận định khái quát cuối cùng.
Ví dụ 1: Với nội dung “Cải cách của Hồ Quí Ly” yêu cầu HS trả lời câu hỏi bằng thảo luận nhóm
a. Vì sao Hồ Quí Ly thực hiện các biện pháp cải cánh đất nước?
b. Em đánh giá như thế nào về nhân vật Hồ Quí Ly?
Ví dụ 2: Còn nội dung “Thanh Hoá trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX” ở khối 11 giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Câu hỏi: 
a. Nêu đặc điểm, ý nghĩa lịch sử của phong trào Cần Vương Thanh Hoá?
b. Em hãy sưu tầm những mẩu chuyện về phong trào Cần Vương chống pháp ở Thanh Hoá ?
Học sinh sẽ thảo luận nhóm với những câu hỏi trên và đưa ra ý kiến của mình.
Ví dụ 3: Với nội dung Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp ở lớp 12 giáo viên có thể đặt câu hỏi: 
a. Em hãy sưu tầm những số liệu về đóng góp nhân dân Thanh Hóa trong chiến dịch Điên Biên Phủ?
b. Vai trò Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp?
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.4.1. Kết quả thăm dò và thực nghiệm phương pháp.
 Qua hai năm học 2017 - 2018; 2018 - 2019 giáo viên và học sinh đã tiến hành áp dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực của HS thông qua nhiều hình thức trên lớp, ở nhà. Kết quả học sinh đã có hứng thú hơn đối với môn học, say mê và nắm chắc kiến thức hơn. Đặc biệt hứng thú với kiến thức, đồ dùng trực quan do mình tự tìm hiểu và nghiên cứu. 
Sau khi dạy, tiến hành đánh giá bằng hình thức kiểm tra viết (phụ lục 2) và trắc nghiệm thăm dò (phụ lục 1) trên lớp tôi có kết quả cụ thể sau.
* Năm học: 2017 - 2018:
	Lớp chưa vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực:
Lớp
Sĩ số
Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình ( %)
Yếu (%)
11A5 - CB
39
02
5.1
11
28.2
26
66.7
0
0
10A5 - CB
42
01
2.4
16
38.1
25
59.8
0
0

	Lớp vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực:
Lớp
Sĩ số
Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình ( %)
Yếu (%)
11A8 - CB
43
5
11.6
24
55.8
14
32.6
0
0
10A1 - CB
41
04
9.8
21
51.2
16
39.0
0
0
* Năm học: 2018 - 2019: 
Lớp chưa vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực:
Lớp
Sĩ số
Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình ( %)
Yếu (%)
11A7 - CB
37
01
2.7
13
35.1
23
62.2
0
0
10A2 - CB 
40
01
2.5
13
32.5
26
65.0
0
0

Lớp vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực:
Lớp
Sĩ số
Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình ( %)
Yếu (%)
11A1 - CB
41
3
7.3
27
65.9
11
26.8
0
0
10A9 - CB
32
10
31.1
19
59.5
3
9.4
0
0

2.4.2. Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh:
- Đối với học sinh:
+ Qua việc sử dụng phiếu thăm dò bản thân tôi nhận thấy học sinh hứng thú hơn trong mỗi giờ học lịch sử, không khí của lớp học sôi nổi, thoải mái.
+ Học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức, các em đã biết chủ động khai thác kiến thức lịch sử địa phương từ nhiều nguồn tư liệu, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế để giải quyết những câu hỏi, bài tập mà giáo viên đưa ra.
+ Học sinh đã biết liên kết các sự kiện lịch sử, xâu chuỗi những kiến thức theo các chuyên đề, chuyên mục, khái quát, tổng hợp kiến thức, đối chiếu so sánh sự kiện lịch sử mang tính địa phương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc để rút ra bản chất. Các em không chỉ hiểu, biết lịch sử mà còn vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
+ Phát huy được tư duy độc lập, khả năng quan sát, óc sáng tạo cũng như hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ xảo đặc thù cần thiết khi học bộ môn. 
- Đối với giáo viên:
+ Bản thân thông qua việc tìm hiểu đã nắm vững lí luận dạy học, từ đó triển khai các biện pháp vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh vào thực tiễn giảng dạy lịch sử ở trường THPT Bá Thước.
+ Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thông qua thực tiễn giảng dạy ở đơn vị cho đồng nghiệp, đúc rút nhiều kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả và vị thế môn Lịch sử ở trường phổ thông.
2.4.3. Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến.
	- Có khả năng ứng dụng cho mọi đối tượng học sinh các khối lớp ở trường THPT, ở các địa phương, vùng miền và mang lại hiệu quả thiết thực, gây hứng thú cho học sinh. là con đường ngắn nhất để học sinh có thể tiếp thu và lĩnh hội kiến thức từ đơn giản đến phức tạp.
	- GV cần xây dựng hệ thống bài tập nêu vấn đề để HS tự giải quyết, từ đó các em nắm vững kiến thức và vận dụng vào thực tế, thấy được mối quan hệ giữa lịch sử địa phương trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt GV còn rèn luện HS phương pháp nghiên cứu học tập độc lập để các em có tư duy giải quyết vấn đề mới phát sinh.
Phần 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Lịch sử địa phương có một vị trí quan trọng trong chương trình lịch sử phổ thông [7], giúp học sinh hiểu sâu sắc lịch sử dân tộc, nhất là những sự kiện lớn xảy ra ở địa phương. Đồng thời, việc hiểu biết mảng kiến thức này sẽ nuôi dưỡng tình yêu quê hương – cơ sở của lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm của các em nhất là trong bối cảnh hiện nay. Do đó, giáo viên cần nhận thức đúng và thực hiện nghiêm túc, tránh tình trạng giảng dạy sơ sài, qua loa.
Mặt khác, không có khóa trình riêng về lịch sử địa phương song song với các khóa trình lịch sử dân tộc và thế giới mà chương trình phổ thông hiện nay quy định là một số tiết về lịch sử địa phương trong khóa trình lịch sử dân tộc. Vì vậy giáo viên cần chú ý sưu tầm và sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong giảng dạy lịch sử dân tộc (nhằm liên hệ, bổ sung, cụ thể hóa một số sự kiện lớn lịch sử dân tộc). Trong thực tiễn giảng dạy, cần đầu tư nghiên cứu, tiến hành các hình thức sinh động, có hiệu quả, đặc biệt chú ý phát huy tính tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh trong việc tham gia tìm hiểu, nghiên cứu học tập. Tuy nhiên trong dạy học lịch sử không có biện pháp nào là vạn năng việc sử dụng các biện pháp sư phạm nói trên chỉ thực sự đem lại hiệu quả giáo dục khi được giáo viên sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả năng nhận thức của các em. 
 Sau một thời gian vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy phần Lịch sử địa phương ở trường THPT Bá Thước, bản thân tôi đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương và với những tiết dạy học theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi cấp trường, cấp Tỉnh và đặc biệt khơi dậy trong học sinh lòng yêu quê hương, đất nước.
 Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn lịch sử ở trường THPT. Do tuổI đời, tuổi nghề còn ít, hiểu biết và kinh nghiệm chắc chắn không tránh những sai sót, rất mong được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp.
3.2. KIẾN NGHỊ.
* Đối với sở GD&ĐT Thanh Hóa
	- Cần quan tâm nhiều hơn đến bộ môn lịch sử ở trường THPT. 
	- Nên tổ chức nhiều chuyên đề cấp tỉnh về nâng cao chất lượng dạy - học lịch sử địa phương cho giáo viên được tham gia.
* Đối với Nhà trường
	Nên có sự đầu tư khuyến khích giáo viên đổi mới PPDH dưới nhiều hình thức khác nhau.
* Đối với giáo viên	
	Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Hạn chế tối đa phương pháp dạy học truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm.
	Phải luôn tìm tòi, sáng tạo để từng bước cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết học, bài học với những đối tượng học sinh khác nhau.
	Phải thực sự tâm huyết, tận tình với công việc, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao trước học sinh. Chỉ thực sự yêu nghề, yêu trẻ GV mới vượt qua những khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ “trồng người của mình”. 
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 6 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Mai Thị Thanh Hà

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_phat_trien_tinh.doc