Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS

I. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến

Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh là một trong những vấn đề được giáo viên quan tâm hàng đầu. Cũng chính vì vậy, ngay từ những năm 60, lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã xuất hiện khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Trong cuộc cải cách giáo dục năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong các phương hướng cải cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi cá nhân không chỉ có khả năng thích ứng nhanh chóng mà phải có một nền tảng tri thức vững chắc.

Hiện nay, phương pháp dạy học Lịch sử đã được chú trọng đổi mới, cải tiến nhiều góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Tuy nhiên, nhìn chung phương pháp dạy học Lịch sử vẫn chưa theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo. Có thể nói, phương pháp dạy học Lịch sử còn có phần bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu về phương pháp dạy học là một trong những trở ngại của việc nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do giáo viên chưa nhận thức đúng đắn, sâu sắc vai trò, vị trí của phương pháp dạy học, chưa tiếp cận những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp dạy học, chưa chú trọng phát huy tính tích cực của học sinh.

doc 23 trang SKKN Lịch Sử 01/06/2025 150
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS
 phong kiến và chống quân xâm lược nước ngoài
Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh: Đọc SGK đoạn 1. Chỉ trên lược đồ để thông báo về cuộc khởi nghĩa lan ra khắp nơi một cách nhanh chóng, lật đổ được chính quyền họ Nguyễn:
+ Tháng 9/ 1773: Hạ thành Quy Nhơn – Giáo viên có thể bổ xung bằng câu chuyện Nguyễn Nhạc lập mưu khi hạ thành Quy Nhơn.
+ Năm 1775: Tạm hoà với Trịnh – Giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao Nguyễn Nhạc phải hoà hoãn với quân Trịnh? (Vì: Tây Sơn đang ở vào thế bất lợi: phía Bắc có quân Trịnh, phía Nam có quân Nguyễn).
+ Năm 1777, bắt và giết chúa Nguyễn. Chính quyền họ Nguyễn bị lật đổ ở Đàng Trong.
GV đặt câu hỏi: Vì sao cuộc khởi nghĩa lan nhanh và giành thắng lợi? (Sức mạnh của nhân dân; Tài trí của anh em Tây Sơn)
Mục 2. Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút. Giáo viên phải sử dụng Lược đồ: Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút để tường thuật diễn biến trận chiến này. Cụ thể:
Giáo viên treo lược đồ: Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, tìm hiểu hệ thống các kí hiệu của lược đồ, 
dựa vào lược đồ để miêu tả, lược thuật diễn biến trận đánh. Giáo viên kết hợp gợi mở một số câu hỏi để học sinh thảo luận.
? Tại sao quân Xiêm sang xâm lược nước ta? (Do Nguyễn Ánh cầu cứu quân Xiêm)
? Ý đồ tiến quân của giặc? (Quân Xiêm kéo vào Gia Định bằng hai đường thuỷ, bộ: 2 vạn quân thuỷ lên Kiên Giang, 3 vạn quân bộ tiến vào Cần Thơ).
? Tại sao Nguyễn Huệ lại chọn đoạn sông này làm trận địa quyết chiến với quân Xiêm? (Đây là một vùng sông nước hiểm yếuHai bên bờ sông cây cối rậm rạp, giữa dòng có cù lao Thới Sơn, địa hình rất thuận lợi cho việc đặt phục binh.)
Giáo viên dùng lược đồ để tường thuật chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút: Mờ sáng 19 – 1 – 1785, Nguyễn Huệ dùng mưu nhử địch vào trận địa mai phục. Quân Xiêm có ưu thế về quân số nên tướng địch rất chủ quan, chúng huy động tất cả quân thuỷ, bộ từ phía Trà Lọt tiến xuống Mĩ Tho, đuổi theo quân Tây Sơn. Khi quân địch lọt hoàn toàn vào trận địa mai phục, thuỷ quân của ta giấu ở hai bên bờ sông và cù lao Thới Sơn bất ngờ xông ra lao vào đội hình địch. Bị tấn công bất ngờ và mãnh liệt, tất cả các chiến thuyền của quân Xiêm bị đánh tan tác, gần 4 vạn quân bị giết tại trận, chỉ còn vài nghìn sống sót vượt qua Chân Lạp về nước. Từ đó, quân Xiêm “sợ quân Tây Sơn như sợ cọp”, Nguyễn Ánh thoát chết, lại chốn sang Xiêm lưu vong”
Sau khi tường thuật xong, giáo viên gọi một hoặc hai em lên bảng tường thuật laị trận đánh bằng lược đồ.
Kết thúc, giáo viên cho học sinh trao đổi về ý nghĩa của chiến thắng. (Là một trong những trận thuỷ chiến lớn nhất, lừng lẫy nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc; đập tan âm mưu xâm lược của quân Xiêm; trừng trị hành động bán nước của Nguyễn Ánh; tài chỉ huy của Nguyễn Huệ; đưa phong trào Tây Sơn phát triển lên một bước)
Như vậy, qua sử dụng hai lược đồ H57 và H58 SGK Lịch sử 7 THCS, học sinh đã xác định được địa danh, sự kiện Tây Sơn lật đổ chính quyền họ Nguyễn và đánh tan quân xâm lược Xiêm. Hơn nữa còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và sự phát triển của quá trình lịch sử. Giúp các em củng cố và ghi nhớ các kiến thức đã học.
Việc sử dụng kênh hình dạy học như trên không chỉ có tác dụng giúp học sinh tạo biểu tượng chân thực về quá khứ, mà còn khắc sâu kiến thức, qua đó hình thành khái niệm và rút ra bài học, quy luật của lịch sử. Đặc biệt nhờ có yếu tố “trực quan sinh động” học sinh sẽ dễ dàng đạt tới “tư duy trừu tượng” tạo thêm niềm hứng thú, say mê trong học tập bộ môn, qua đó từng bước nâng cao hiệu quả bài học.
2.3.4. Phương pháp vấn đáp
Phương pháp vấn đáp là phương pháp giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho họ sáng tỏ những vấn đề mới, tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những điều đã học hoặc những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống. Từ đó, giúp học sinh củng cố, mở rộng đào sâu, tổng kết, hệ thống hoá tri thức đã tiếp thu được, nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp học sinh tự kiểm tra, đánh giá và lĩnh hội tri thức.
Trong sử dụng phương pháp vấn đáp, đòi hỏi giáo viên phải có nghệ thuật đặt câu hỏi. Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, không thể có hai câu trả lời đúng, hình thức gọn gàng. Học sinh phải mạnh dạn trả lời, nếu sai học sinh khác bổ sung, qua đó kích thích hoạt động chung của lớp. Giáo viên không chỉ chú ý đến kết quả trả lời của học sinh mà cả cách diễn đạt câu trả lời một cách chính xác, rõ ràng, hợp lôgíc, là điều kiện quan trọng để phát triển tư duy lôgíc của học sinh.
Ví dụ:Khi dạy bài 1: Sự hình thành và phát triển của xã hội phong kiến ở Châu Âu – SGK Lịch sử 7. Mục 3: Sự xuất hiện các thành thị trung đại.
GV có thể đưa ra một số câu hỏi ở các mức độ khác nhau, học sinh suy nghĩ trả lời.
? Thành thị trung đại xuất hiện như thế nào? (Cuối thế kỉ XI, sản xuất phát triển, hàng hoá dư thừa được đưa đi bán – thị trấn ra đời – thành thị trung đại xuất hiện.)
? Cư dân trong thành thị gồm những ai? Họ làm những nghề gì? (Thợ thủ công và thương nhân)
? Thành thị ra đời có ý nghĩa như thế nào? (Thúc đẩy sản xuất phát triển, tác động đến sự phát triển của xã hội phong kiến.)
2.4. Sử dụng tư liệu lịch sử và các câu chuyện lịch sử
2.4.1. Sử dụng tư liệu lịch sử và câu chuyện lịch sử để tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử
Đi cùng với các sự kiện lịch sử thường gắn với 1 nhân vật lịch sử cụ thể, đặc biệt là những nhân vật có vai trò quan trọng với lịch sử dân tộc. Vì vậy trong dạy học giáo viên không thể lướt qua mà phải khắc hoạ, tạo biểu tượng về các nhân vật đó, sử dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử một cách sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học sinh kính trọng, noi gương các anh hùng dân tộc.
 Ví dụ ở bài 27 “Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938” – SGK Lịch sử 6, giáo viên tạo biểu tượng về Ngô Quyền
“Ngô Quyền (898 - 944) là người làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Tây (cũ) nay là Sơn Tây – Hà Nội. Ông là người có sức khỏe, chí lớn, mưu cao. Theo Đại Việt sử kí toàn thư ghi chép, khi Ngô Quyền ra đời, trong nhà bỗng có ánh sáng lạ tràn ngập. Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, có thể làm chủ cả một phương, nhân đó cha ông đặt tên húy là Quyền. Khi lớn lên, Ngô Quyền có tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người. Trong cuộc kháng chiến của Dương Đình Nghệ chống quân Nam Hán, Ngô Quyền đã chiến đấu rất anh dũng. Là một tướng giỏi lại có nhiều công lao, Ngô Quyền được Dương Đình Nghệ tin yêu và gả con gái cho. Sau khi đánh đuổi được quân Nam Hán, Ngô Quyền được cha vợ phong làm Thứ sử và giao cho cai quản khu vực Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay)”.
2.4.2. Sử dụng tư liệu lịch sử và câu chuyện lịch sử để giải thích từ đó rút ra bản chất một sự kiện, một hiện tượng lịch sử
Việc dạy học lịch sử không chỉ dừng lại ở học thuộc lòng mà quan trọng giáo viên phải giúp học sinh nắm vững và hiểu rõ về bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Muốn học sinh dễ nhớ và nhớ lâu thì phương pháp sử dụng câu chuyện lịch sử là một cách làm hiệu quả.	
Ví dụ, ở bài 27 “Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938” – SGK lịch sử 6, để giúp học sinh hiểu được vì sao Ngô Quyền chọn mai phục quân địch ở sông Bạch Đằng? Ngô Quyền xây dựng trận địa mai phục ở đây như thế nào? Giáo viên sử dụng câu chuyện về sông Bạch Đằng và sự chuẩn bị của Ngô Quyền như sau: “Sông Bạch Đằng tên nôm là Sông Rừng vì hai bên bờ sông nhất là phía tả ngạn toàn là rừng rậm. Hạ lưu sông thấp, độ dốc không cao nên ảnh hưởng của thủy triều lên xuống rất mạnh, chênh nhau đến 3m. Khi nước triều lên, lòng sông rộng mênh mông đến hàng nghìn mét, sâu tới chục mét. Biết rõ quân địch sẽ kéo vào nước ta qua đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã huy động cho quân, dân lên rừng chặt gỗ, đẽo nhọn đầu và bịt sắt, đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng những nơi hiểm yếu, số cọc đóng uống lòng sông đến hàng nghì chiếc. Lúc nước triều lên bãi cọc chìm trong một biển nước mênh mông. Phía trên bãi cọc Ngô Quyền còn bố trí một lực lượng thủy binh ẩn nấp hai bên bờ sông. Nhiều thuyền được dấu kín trong các bụi lau sậy. Hàng nghìn quân bộ, cung nỏ sẵn sàng, ngày đêm mai phục bên cạnh các vách núi.”
2.4.3. Sử dụng câu chuyện lịch sử để nêu câu hỏi nhận thức
Mục đích của việc sử dụng truyện kể lịch sử trong dạy lịch sử chính là thông qua đó nâng cao nhận thức học sinh, tạo hứng thú cho các em. Vì vậy, sau mỗi truyện kể giáo viên nên đưa ra các câu hỏi nhận thức để làm rõ vấn đề và khắc sâu nội dung bài học.
Ví dụ: Khi giảng bài 3 “Xã hội nguyên thủy”- - SGK Lịch sử 6, mục 1 “Con người đã xuất hiện như thế nào?”giáo viên sử dụng những mẩu chuyện, những cách giải thích khác nhau về nguồn gốc con người của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Ví dụ: câu chuyện thượng đế tạo ra con người của phương Tây, chuyện Nữ Oa tạo ra con người của người Trung Quốc, hay sự tích Lạc Long Quân – Âu Cơ của người Việt Nam  Qua đó giúp học sinh hiểu được đây chỉ là những cách giải thích về nguồn gốc của loài người khi khoa học còn chưa phát triển, con người chưa có đủ cơ sở khoa học để lý giải về nguồn gốc của mình nên gửi gắm điều đó vào thần thánh và các thế lực siêu nhiên. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học nói chung và khoa học lịch sử nói riêng, chúng ta đã có những minh chứng xác thực nhất về nguồn gốc của con người và quá trình chuyển biến từ vượn thành người diễn ra như thế nào. Sau đó giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi mở để gây hứng thú tìm tòi cho học sinh: Vậy cơ sở nào khẳng định con người có nguồn gốc từ một loài vượn cổ? Quá trình chuyển biến từ vượn thành người diễn ra như thế nào? Ngày nay quá trình đó có diễn ra hay không? Tại sao?... Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác các đơn vị kiến thức cơ bản của bài để lần lượt lật mở các vấn đề vừa nêu ra.
Trên đây là một số phương pháp lồng ghép sử dụng tư liệu và kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao tính tích cực học tập và hiệu quả bài học, truyền đạt kiến thức mới. Trong quá trình vận dụng giáo viên nên có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết học....
2.5. Dạy học bám sát theo chuẩn kiến thức – kĩ năng
Thực tế hiện nay, giáo viên không quan tâm đến chương trình chỉ chú ý đến SGK- là tài liệu để học sinh học tập, không coi SGK là pháp lệnh, cố dạy hết SGK gây quá tải. Yêu cầu đặt ra là phải bám sát chuẩn kiến thức – kĩ năng, thông qua SGK để xác định, lựa chọn nội dung cơ bản, kiến thức trọng tâm, giúp học sinh nắm “ít” mà “tinh”.
Ví dụ:Khi dạy Tiết 36. Bài 24. Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873 – SGK Lịch sử 8 - Phần I. Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873. Mục 1. Chiến sự ở Đà Nẵng những năm 1858 – 1859. GV cần cung cấp được những kiến thức sau đay theo đúng chuẩn kiến thức – kĩ năng.
- Nguyên nhân Pháp xâm lược:
+ Từ giữa thế kỉ XIX, các nước phương Tây đẩy mạnh xâm lược các nước phương Đông để mở rộng thị trường, vơ vét tài nguyên.
+ Việt Nam có vị trí đại lí thuận lợi, giàu tài nguyên thiên nhiên.
+ Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng, suy yếu.
- Pháp đánh Đà Nẵng:
+ Lấy cớ bênh vực đạo Giatô, liên quân Pháp – Tây Ban Nha kéo đến Việt Nam.
+ Ngày 1 – 9 – 1858, quân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng.
+ Quân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, lập phòng tuyến, anh dũng chống trả.
+ Sau 5 tháng xâm lược, Pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bước đầu thất bại.
Tóm lại, việc đưa ra những phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử giúp cho học sinh lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức, là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, gợi dậy những xúc cảm lịch sử, kích thích hứng thú học tập của học sinh, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm cho các em. Như vậy, hoạt động tích cực, độc lập của học sinh trong dạy học lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường THCS.
2.6. Kết hợp các biện pháp trong quá trình giảng dạy
	Để giờ học trở nên sinh động hấp dẫn, có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải biết phối kết hợp các biện pháp một cách nhuần nhuyễn. Sử dụng quá thiên về một biện pháp sẽ làm giờ học trở nên khô khan, làm mất hứng thú học tập của học sinh hoặc lạm dụng quá nhiều biện pháp trong cùng một giờ học cũng có thể khiến giờ học trở nên “quá tải”, căng thẳng.
III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
- Đối tượng áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Học sinh trường THCS Liên Bảo – Vụ Bản – Nam Định
-Kết quả:Trong quá trình áp dụng sáng kiến, tôi nhận thấy kết quả dạy và học bộ môn đã bước đầu được cải thiện. Nội dung sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi trong phạm vi cả 4 khối của cấp THCS. Kết quả thu được cụ thể như sau:
+ Kết quả học tập bộ môn lịch sử khi chưa thực hiện áp dụng sáng kiến:
Khối lớp
Sĩ số
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
88
15
17,1
45
51,1
25
28,4
3
3,4
7
110
25
22,7
50
45,5
30
27,3
5
4,5
8
100
18
18
52
52
28
28
2
2
9
80
17
21,3
 40
50
30
37,5
3
3,8

+ Kết quả học tập bộ môn lịch sử của học sinh sau khi áp dụng sáng kiến:
Khối lớp
Sỹ số
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
88
25
28,4
50
56,8
13
14,8
0
0
7
110
31
28,2
57
51,8
22
20
0
0
8
100
25
25
60
60
14
14
0
0
9
80
25
31,3
40
50
15
18,7
0
0

IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
 Việc khơi dậy và phát huy tính tích cực học tập của học sinh là điều mà bất kì một giáo viên nào cũng mong muốn. Cá nhân tôi là một giáo viên trẻ, trong quá trình công tác tôi luôn xác định phải nỗ lực tìm tòi, học hỏi để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử ở trường THCS. Đó là lý do tôi tìm tòi và viết sáng kiến kinh nghiệm này. Tôi xin cam đoan sáng kiến này không sao chép hoặc vi phạm bản quyền của người khác !
	TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
 Trần Thị Hải Ninh
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
...............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT
..............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_huy_tinh_tich_cu.doc