Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo nhất là tư duy của học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX
Những năm gần đây chúng ta thường nói nhiều đến việc dạy học nhằm phát triển hoạt động nhận thức độc lập nhất là tư duy học sinh. Đây là một tư tưởng, một quan điểm, một cách tiếp cận mới về hoạt động dạy học. Quan điểm này được hiểu là khi học lịch sử, quá trình nhận thức của học sinh đi từ tri giác tài liệu đến tạo biểu tượng rồi phân tích, so sánh, đối chiếu... để tìm ra dấu hiệu bản chất thì phải kích thích đuợc tư duy. Hay nói cách khác trong hoạt động nhận thức của học sinh tư duy có vai trò quan trọng bởi nếu không có tư duy thì học sinh không nhận thức bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Mặt khác do đặc trưng của việc nhận thức trong học Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Lịch sử không thể trực quan quan sát, không thể khôi phục trong phòng thí nghiệm lại tồn tại khách quan không thể thông qua bằng phán đoán hay suy luận để học Lịch sử. Dạy Lịch sử cũng như dạy bất cứ cái gì “đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải là bắt buộc trí nhớ làm việc, bắt nó ghi chép rồi trả lại”[4].
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo nhất là tư duy của học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX

ước, hiếu với dân, tấm long son sắt tựa mặt trời, mặt trăng Sinh ở Nam, mất ở Bắc, khí tiết nghìn năm sau vẫn rạng rỡ nước non này. Ví dụ 2: Trình bày ý kiến của em về sự kiện 5/6/1862, trong thời kì chống xâm lược Pháp. Để trả lời câu hỏi này HS trên cơ sở xác định sự kiện 5/6/1862 triều đình Huế kí Hiệp ướp Nhâm Tuất nhượng bộ đối với thực dân Pháp. Việt Nam giao cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kì, bồi thường chiến phí 4 triệu đôla. Pháp được tự do buôn bán và truyền giáo ở Việt Nam Từ việc xác định rõ nội dung HS sử dụng kĩ năng tư duy, phấn tích, đánh giá, phê phán của bản thân để trình bày đánh giá bản thân như + Mở ra thời kì hoà hoãn, đầu hàng thực dân xâm lược của triều đình Huế. +Tạo ra sự phân hoá mạnh mẽ về thái độ chống Pháp giữa hai phe chủ chiến và chủ hoà. + Chứng tỏ thực dân Pháp gặp khó khăn trong việc thôn tính Việt Nam bằng vũ trang. +Chứng tỏ triều đình Huế không đủ khả năng dùng vũ trang chống xâm lược Pháp. + Phe chủ hoà do vua Tự Đức đứng đầu, đã đánh một ván cờ chính trị không mạng lại hiệu quả. +Hiệp ước 5/6/1862, để lại sự tranh luận của giới sứ giả. + Hiệp ước 5/6/1862 là bài học quý báu đối với các nhà chính trị và ngoại giao trong giai đoạn hiện nay. - Bài tập nhằm phát triển các năng lực nhận thức lịch sử của HS gồm tri giác, nhớ, hình dung tưởng tượng, tư duy... Đối với dạng bài tập này đòi hỏi khôi phục lại quá trình lịch sử qua các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong bối cảnh không gian, thời gian nhất định có phát sinh, phát triển, kết thúc. HS khi trả lời các bài tập này là nền tảng cho các thao tác tư duy từ đó các em nắm vững bản chất vấn đề. Ví dụ 1: Khi dạy bài 20 mục III Thực dân Pháp tấn công cửa biển Thuận An. Hiệp ước 1883 và hiệp ước 1884 ở mục 2 GV cho HS thảo luận bài tập : Vì sao triều đình Huế lại kí với Pháp hiệp ước Hác măng và Patơnốt?Từ những nội dung hãy so sánh hai hiệp ước này có điểm gì giống và khác nhau? Để trả lời HS cần khôi phục lại bức tranh lịch sử để từ đó phân tích, so sánh, tổng hợp... rút ra * Giống nhau: - Cả hai hiệp ước đều thừa nhận quyền bảo hộ của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. - Đều thể hiện thái độ của Nhà Nguyễn biến sự mất nước từ không tất yếu thành tất yếu * Khác nhau: - Hiệp ước Hác măng: Khu vực cai quản của triều đình Huế bị thu hẹp lại từ Khành Hòa đến Đèo Ngang. - Hiệp ước Pa-tơ-nốt: Khu vực cai quản triều đình Huế được mở rộng đến Bình Thuận và Thanh – Nghệ -Tĩnh. Đây là âm mưu xoa dịu sự công phẫn của nhân dân * Nhận xét: - Các hiệp ước trên đều thể hiện sự nhu nhược của triều đình Huế, không dám cùng nhân dân đứng lên chống Pháp. - Các hiệp ước này đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp đặt ách thống trị lâu dài nước ta. Từ việc phân tích, so sánh HS tự rút ra một trong những nguyên nhân Việt Nam bị mất nước (do thái độ nhu nhược của triều đình Nguyễn). Ví dụ 2: Sau khi học xong phần Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX GV đưa ra HS câu hỏi: Hãy so sánh thái độ của nhân dân và thái độ của triều đình trong cuộc kháng chiến? Để trả lời được yêu cầu HS không chỉ tổng hợp lại kiến thức mà còn sử dụng thao tác tư duy để nhận thấy sự khác nhau về tinh thần trách nhiệm, động cơ, ý thức chống giặc. Từ đó các em nhận thức rõ sự khác biệt nhân dân chủ động, sáng tạo, kiên quyết, đoàn kết chống xâm lược còn triều đình bị động, máy móc, thiếu sáng tạo, thiếu quyết tâm, dẫn đến xa rời cuộc kháng chiến của cả dân tộc.[6] - Bài tập nhằm rèn luyện khả năng vận dụng những kiến thức đã học để hiểu biết kiến thức mới. Việc vận dụng kiến thức trong dạy học lịch sử có vai trò quan trọng, tạo ra chất lượng mới trong việc nắm vững kiến thức của HS. Bởi lẽ kiến thức khi HS vận dụng thì được củng cố là công cụ phát triển, công cụ giáo dục và công cụ thu nhận kiến thức mới, trở thành phương pháp nhận thức hiện tượng của đời sống xã hội [4]. Việc vận dụng kiến thức không chỉ giúp HS nắm vững kiến thức và qua đó phát triển tư duy so sánh, đối chiếu với các kiến thức đã đuợc học. Ví dụ: Khi tìm hiểu bài 20: “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng” sau khi cho HS củng cố kiến thức bài GV yêu cầu HS trả lời bài tập 2 SGK trang 123. Sau đó yêu cầu HS liên hệ: Từ sự thất bại của cuộc kháng chiến chống Pháp cuối thế kỉ XIX, hãy rút ra bài học đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay? HS trên cơ sở kiến thức về quá trình kháng chiến chống Pháp, nguyên nhân thất bại rút ra bài học vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay như: - Cần phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp. - Để đủ sức bảo vệ độc lập dân tộc cần phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước bao gồm kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng. - Cần có đường lội đúng đắn, linh hoạt trước mọi biến động của tình hình thế giới và trong nước. - Luôn có tư duy đổi mới, canh tân đất nước.[11] Tóm lại, sử dụng bài tập nêu vấn đề trong dạy học lịch sử ở trường THPT không chỉ có tác dụng giúp học sinh từng bước chiếm lĩnh tri thức lịch sử mà còn phát triển tư duy độc lập của học sinh. Đây là phương tiện quan trọng làm cho bài học trở nên sôi động hấp dẫn, phát huy tính tích cực học tập của HS. 2.3.4. Phương pháp nghiên cứu học tập Trong quá trìn dạy học, GV cần hướng dẫn cho HS làm quen với phương pháp nghiên cứu lịch sử bằng cách đưa ra cho các em tìm hiểu những vấn đề đã đuợc giải quyết thậm chí chưa đuợc giải quyết như mảng lịch sử địa phương. Từ đó các em thấy đuợc mối liên hệ giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước. Tuy nhiên khi sử dụng biện pháp này phải đảm bảo tính vừa sức đối với HS. Về cách thức tiến hành: - Đầu tiên GV hướng dẫn HS xác lập mục đích nghiên cứu, cho các em làm quen với phương pháp giải quyết các vấn đề đã đặt ra và chỉ rõ con đường giải quyết. - Tiếp đó hướng dẫn HS hình thành vấn đề và nội dung vấn đề còn các em xác định con đường giải quyết vấn đề. - Cuối cùng HS tự đưa ra vấn đề cơ bản của việc nghiên cứu, con đường giải quyết và rút ra kết luận.[3] Ví dụ : Khi tìm hiểu bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX” để HS nhìn nhận mối quan hệ lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc GV cần lồng ghép giới thiệu lịch sử địa phương khi tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình. GV đặt câu hỏi : Em hãy hoàn thành bảng thống kê các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần Vương ở Thanh Hoá theo mẫu? từ đó rút ra đặc điểm và ý nghĩa? Với dạng bài tập này rèn luyện cho HS khả năng tự học, tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của GV. Qua đó các em bước đầu làm quen với phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học, độc lập giải quyết các vấn đề, các tình huống mới, tạo hứng thú say mê bộ môn. HS dựa vào kiến thức địa phương và lược đồ Phong trào Cần vương ở Thanh Hóa xác định con đường giải quyết và rút ra kết luận Trong quá trình tìm hiểu GV cần giúp HS tìm hiệu căn cứ Ba Đình. Đối với HS ở trường THPT Vĩnh Lộc nơi tôi công tác đó là căn cứ Hùng Lĩnh ở xã Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Từ đó các em tự rút ra đặc điểm, ý nghĩa phong trào Tóm lại trong dạy học nói chung , dạy học Lịch sử không có phương pháp nào là vạn năng để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập của các em [8]. Dạy học là cả một nghệ thuật. Có nhiều con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn. Tuy nhiên kết quả công việc này đạt đến mức độ như thế nào phụ thuộc nhiều vào sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt của GV trong việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp dạy học. Để giúp học sinh phát huy tính tích cực, độc lập trong quá trình học tập môn lịch sử ở trường THPT đòi hỏi giáo viên phải sử dụng nhiều biện pháp sư phạm. Việc sử dụng các biện pháp sư phạm nói trên chỉ thực sự đem lại hiệu quả giáo dục khi được giáo viên sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả năng nhận thức của các em. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường Với việc sử dụng một số biện pháp nhằm phát triển các hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo nhất là tư duy của HS trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX, ở học kì II năm học 2016 - 2017 tại trường THPT Vĩnh Lộc, đã đạt được một số kết quả như sau: Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh: + Học sinh hứng thú hơn trong mỗi giờ học lịch sử, không khí của lớp học sôi nổi, thoải mái. + Học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức, các em đã biết chủ động khai thác kiến thức trong SGK, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế để giải quyết những câu hỏi, bài tập mà giáo viên đưa ra. + Học sinh đã biết liên kết các sự kiện lịch sử, xâu chuỗi những kiến thức theo các chuyên đề, chuyên mục, khái quát, tổng hợp kiến thức, đối chiếu so sánh để rút ra bản chất của sự vật hiện tượng. Các em không chỉ hiểu, biết lịch sử mà còn vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. + Làm thay đổi cơ bản quan niệm và cách học bộ môn lịch sử của học sinh trước đây là lệ thuộc vào sự truyền giảng kiến thức của giáo viên sang phương pháp học mới lấy người học làm trung tâm. Qua đó, phát huy được tư duy độc lập, khả năng quan sát, óc sáng tạo cũng như hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ xảo đặc thù cần thiết khi học bộ môn. Đối với bản thân và đồng nghiệp: + Bản thân thông qua việc tìm hiểu đã nắm vững lí luận dạy học, từ đó triển khai các biện pháp phát triển các hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo nhất là tư duy HS vận dụng có hiệu quả vào thực tiễn giảng dạy ở trường THPT Vĩnh Lộc. + Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thông qua thực tiễn giảng dạy ở đơn vị cho đồng nghiệp, đúc rút nhiều kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả và vị thế môn Lịch sử ở trường phổ thông. + Xây dựng nhiều bài tập nhằm nâng cao nhận thức cho HS, củng cố kiến thức phần Lịch sử 11 giúp các em tự tin trong kì thi HS giỏi cấp Tỉnh và thi THPT Quốc gia năm tới. Đối với Nhà trường Thông qua việc vận dụng các biện pháp sư phạm nhằm phát triển hoạt động nhận thức độc lập sáng tạo nhất là tư duy góp phần thực hiện đổi mới PPDH, chuyển từ dạy học lấy GV làm trung tâm sang dạy học theo quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”. Kết quả môn học lịch sử của hai lớp học sinh khối 11 trong học kì II khi tôi thực hiện đã đạt được kết quả khả quan sau: Lớp SLHS Giỏi Khá TB Yếu Kém Sl % Sl % Sl % Sl % Sl % 11A1 44 4 9,0 20 45,45 20 45,45 0 0 0 0 11A2 43 5 11,6 18 41,9 20 46,5 0 0 0 0 Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến. - Có khả năng ứng dụng cho mọi đối tượng học sinh các khối lớp ở trường THPT, ở các địa phương, vùng miền và mang lại hiệu quả thiết thực, gây hứng thú cho học sinh. là con đường ngắn nhất để học sinh có thể tiếp thu và lĩnh hội kiến thức từ đơn giản đến phức tạp. - Ngoài những bài tập, câu hỏi trong SGK thì GV cần xây dựng hệ thống bài tập nêu vấn đề để HS tự giải quyết, từ đó các em nắm vững kiến thức và vận dụng vào thực tế. Đặc biệt GV còn rèn luện HS phương pháp nghiên cứu học tập độc lập để các em có tư duy giải quyết vấn đề mới phát sinh. 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí, chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Nhưng hiện nay học sinh lại chưa chú trọng học môn này. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân gây nên. Nhưng phải thừa nhận một nguyên nhân rất quan trọng là do kết quả, chất lượng giảng dạy của chính những giáo viên dạy lịch sử hiện nay, đặc biệt là việc duy trì kiểu dạy truyền thống “thầy đọc, trò chép”, nhồi nhét kiến thức, học sinh thụ động trong tiếp thu kiến thức. Từ đó có thể thấy việc xây dựng và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh qua những giờ học lịch sử rõ ràng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cũng hết sức nặng nề của người giáo viên dạy môn lịch sử. Hoạt động nhận thức tích cực, độc lập đặc biệt là trong tư duy có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả giảng dạy, giáo dục và phát triển toàn diện HS. Để giúp học sinh phát huy hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo trong quá trình học tập môn lịch sử ở trường THPT đòi hỏi giáo viên phải sử dụng nhiều biện pháp sư phạm. Tuy nhiên trong dạy học lịch sử không có biện pháp nào là vạn năng để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập của các em. Việc sử dụng các biện pháp sư phạm nói trên chỉ thực sự đem lại hiệu quả giáo dục khi được giáo viên sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả năng nhận thức của các em. Sau một thời gian vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam, bản thân tôi đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa và với những tiết dạy học theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi cấp trường, cấp Tỉnh và thi THPT Quốc gia và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn lịch sử ở trường THPT. Do tuổ đời, tuổi nghề còn ít, hiểu biết và kinh nghiệm chắc chắn không tránh những sai sót, rất mong được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp. 3.2. Kiến nghị. * Đối với sở GD&ĐT Thanh Hóa - Cần quan tâm nhiều hơn đến bộ môn lịch sử ở trường THPT. - Nên tổ chức nhiều chuyên đề cấp tỉnh về nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn lịch sử cho giáo viên được tham gia. * Đối với Nhà trường Nên có sự đầu tư khuyến khích giáo viên đổi mới PPDH dưới nhiều hình thức khác nhau. * Đối với giáo viên Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Hạn chế tối đa phương pháp dạy học truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm. Phải luôn tìm tòi, sáng tạo để từng bước cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết học, bài học với những đối tượng học sinh khác nhau. Phải thực sự tâm huyết, tận tình với công việc, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao trước học sinh. Chỉ thực sự yêu nghề, yêu trẻ GV mới vượt qua những khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ “trồng người của mình”. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày18 tháng 5 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. (Ký và ghi rõ họ tên) Mai Thị Thanh Hà
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_hoat_dong.doc