Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng mẩu chuyện trong dạy học Lịch sử lớp 10 nhằm nâng cao hứng thú và tính tích cực của học sinh

Lịch sử là môn học rất quan trọng không chỉ cung cấp tri thức khoa học cho con người mà còn bồi đắp lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ.

Tuy nhiên thực tế những năm gần đây, hình như HS đang quay lưng lại với môn Lịch sử và không còn yêu thích môn học này, chất lượng dạy và học bộ môn giảm sút một cách kinh ngạc. Một thực trạng đáng buồn là tỉ lệ HS lựa chọn môn Sử trong kì thitốt nghiệp (năm học 2013-2014)và kì thi THPT Quốc gia bắt đầu từ năm học này rất ít. Các em học lịch sử rất thờ ơ, học máy móc để đối phó với thầy cô. Riêng đối với môn Lịch sử lớp 10, tình trạng đó trở nên phổ biến hơn vì là lớp đầu cấp, chương trìnhkhông liên quan đến thi tốt nghiệp và cao đẳng, đại học nên HS học rất hờ hững, chưa đầu tư đúng mức. Đa số các em vẫn còn thói quen học đối phó, học vẹt, không nắm sâu được kiến thức vì vậy sẽ mau quên kiến thức cũ, hoặc có nhớ thì cũng không thực sự chính xác các sự kiện lịch sử. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên:

Một là do một số thầy cô chưa đầu tư xứng đáng cho môn học, việc chuẩn bị tài liệu dạy học còn nghèo nàn. Trong quá trình dạy vẫn sử dụng lối thầy đọc- trò chép,lời giảng khô khan, phương pháp đơn điệu làm HS nhàmchán, không thích học.

docx 51 trang SKKN Lịch Sử 12/08/2025 110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng mẩu chuyện trong dạy học Lịch sử lớp 10 nhằm nâng cao hứng thú và tính tích cực của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng mẩu chuyện trong dạy học Lịch sử lớp 10 nhằm nâng cao hứng thú và tính tích cực của học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng mẩu chuyện trong dạy học Lịch sử lớp 10 nhằm nâng cao hứng thú và tính tích cực của học sinh
hiều người phải leo lên mái nhà, ban công, các cửa sổ của những lâu đài để nhìn xuống.
Ở giữa quảng trường người ta đặt một bục gỗ cao, binh lính đứng vây quanh. Sau tiếng hô lớn của hàng nghìn người “Tiến hành đi”. Một đám đông người chầm chậm tiến ra quảng trường đem theo nhà vua ra pháp trường. Việc hành hình nhà vua bắt đầu.
Nhà vua run rẩy bước lên bục cùng với vệ binh, đao phủ, cùng với công tố viên và linh mục.Trong khung cảnh yên lặng người ta nghe toàn văn bản cáo trạng, len án Sac-lơ I là kẻ phản bội và là kẻ thù của nhân dân, của đất nước. Sau đó người ta bắt Sac-lơ I quỳ xuống để linh mục rảy “nước thánh” và “rửa tội”. Cuối cùng 1 đao phủ bước ra với chiếc búa sắc ngọt trong tay, chiếc búa mà trước đây Sac-lơ I đã từng dùng để chặt đầu những gười dân vô tội, nhanh chóng giáng mạnh xuống đầu Sac-lơ I, chiếc đầu lâu văng ra lông lốc. Người đao phủ đặt búa xuống, nắm tóc giơ cao chiếc đầu của tên vua chuyên chế, ác độc giữa tiếng reo hò của mọi người. Lần đầu tiên trên thế giới quần chúng nhân dân đã xử tội tên vua phong kiến như vậy.
Oa-sinh-tơn- Người anh hùng đầu tiên của nước Mĩ
Giooc-giơ Oa-sinh-tơn sinh năm 1732 trong 1 gia đình chủ nô giàu có ở Viếc- ghin. Lúc bấy giờ Bắc Mĩ còn nằm dưới ách thống trị của người Anh.
Năm 1774, Oa-sinh-tơn được bầu đi dự Đại hội lục địa lần thứ nhất, năm 1775- dự Đại hội lục địa lần thứ hai. Ngay từ đầu cuộc chiến tranh giành độc lập, Đại hội đã bầu Oa-sinh-tơn làm tổng chỉ huy quân đội. Lúc đầu lực lượng quân khởi nghĩa còn yếu, tổ chức thiếu chặt chẽ, trang bị kém...nên không thể đương đầu nổi với quân Anh. Mặc dù liên tiếp thất bại nhưng Oa-sinh-tơn tỏ ra không chút nản lòng. Sau mỗi lần rút lui ông đều củng cố lại quân đội và kiên quyết chiến đấu. Chẳng bao lâu, quân khởi nghĩa đã liên tiếp giành thắng lợi. Đó là trận Xa-ra-tô-ga (10/1777) và chiến thắng I- ooc-tao (1/1781), buộc Anh phải công nhận nền độc lập của 13 thuộc địa. Nước Mĩ ra đời.
Rõ ràng trong sự thành công của cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mĩ, Oa- sinh-tơn là người có công lao và vai trò lớn nhất, có thể nói ông là một trong những người đã khai sinh ra Hợp chúng quốc Hoa kì và là người anh hùng đầu tiên của nước Mĩ. Ngày nay thủ đô Mĩ mang tên Oa-sinh-tơn, người anh hùng dân tộc của nhân dân Mĩ.
Tình cảnh người nông dân Pháp trước CM
Một người nông dân già nua, ốm yếu nhưng lại phải cõng trên lưng mình hai người đàn ông to béo, khỏe mạnh. Đó chính là hình tượng cho hai đẳng cấp quý tộc và tăng lữ trong xã hội Pháp trước cách mạng
Người ngồi đằng trước mặc chiếc áo choàng, cổ đeo cây thánh giá, nét mặt có vẻ sung sướng thỏa mãn, tượng trương cho tăng lữ (Đ/c thứ nhất). Người ngồi đằng sau đeo thanh kiếm dài ở cạnh sườn có nhiều đồ trang sức và mũ lông chim rất cao quý, tượng trưng cho tầng lớp quý tộc (đ/c thứ 2). Cả hai đều béo mũm mĩm, má toàn mỡ, ăn mặc thì màu mè, diêm dúa và cự kỳ quý phái. Trong túi quần và túi áo của tăng lữ, quý tộc thò ra những loại văn bản vay nợ, cho thuê ruộng, những quy định về nghĩa vụ phong kiến của nông dân mà có lẽ đến hàng nghìn đời họ cũng không trả hết được. Người nông dân phải nộp đủ mọi thư thuế như: thuế kế thừa, thuế rượu, thuế muốisản phẩm làm ra phải nộp cho lãnh chúa 10 đến 20%, cho nhà nước là 50%, cho giáo hội 10%. Ngoài ra, họ phải nộp thuế khi qua cầu của lãnh chúa, thuế khi dùng cối để xay bột
Vì phải cõng hai tầng lớp của xã hội nên lưng của người nông dân còng xuống, tay chống bởi chiếc cán cuốc đã mòn vẹt. Đây chính là biểu hiện cho công cụ sản xuất thô sơ và lạc hậu của người nông dân cũng như nên nông nghiêp của Pháp trước CM. Dưới chân người nông dân là những con vật thường xuyên phá hại mùa màng như chuột, chim câu và thỏ sản phẩm làm ra đã ít ỏi thì vừa phải nộp cho quý tộc, tăng lữ vừa bị bọn thú vật phá hoại.
...Người ta thấy một số thú vật dữ tợn, đực và cái, rải khắp xóm làng, xạm đen, hốc hác và rám nắng, gắn chặt vào mảnh đất mà chúng đào xới 1 cách cực kì nhẫn nại. Hình như chúng cũng có 1 giọng nói, và khi chúng đứng lên, người ta thấy chúng có bộ mặt người.Và qả thực chúng là người. Đêm đến chúng rúc vào hang sống bằng bánh mì đen, nước lã và rễ cây.
Đánh chiếm ngục Baxti
Pháo đài Baxti được xây dựng kiên cố từ TK XIV. Lúc đầu là 1 pháo đài bảo vệ thành phố, về sau các vua Pháp biến Baxti thành 1 nhà tù giam cầm những người đấu tranh chống CĐPK chuyên chế. Vì vậy nhân dân Pháp vô cùng căm ghét CĐPK thối nát cùng nơi giam giữ này.
Sáng ngày 14/7/1789, nhân dân Pari mang theo đủ thứ khí giới từ khắp nơi rầm rập kéo về hướng ngục Baxti với một khí thế mạnh mẽ chưa từng thấy. Khi nhân dân tới nơi, lính gác ngục đã kéo cầu treo lên, đóng chặt lối đi duy nhất vào ngục.
Nhiều người dũng cảm đã tìm cách leo vào. Song tường thành quá cao lại thêm đạn giặc xối xả bắn xuống nên rơi xuống, anh dũng hi sinh. Cảnh tượng đau thương đó như đổ dầu vào lửa. Nhân dân hò nhau mang đại bác tới, bắn hạ cầu treo. Họ xông vào thành chiến đấu, đập phá tan tành ngục Baxti.
Vua Pháp chưa hiểu hết tình hình, khi được tin Baxti đã bị chiếm, nhà vua kinh ngạc hỏi “Đây là cuộc nổi loạn à?, viên cận thần đứng bên trả lời “Không, CM ạ”
Một năm sau nhân dân xây lên đó quảng trường và khắc dòng chữ “Ở đây người ta nhảy múa”. Ngày 14/7- ngày chiếm ngục Baxti từ đó đã đi vào lịch sử, ngày khởi đầu của CMTS Pháp và trở thành ngày Quốc khánh của nhân dân Pháp.
Trong bài thơ “14 tháng 7” của nhà thơ Tố Hữu viết:
“Và lớn, và bé, đàn ông, đàn bà Tất cả chiếm mỗi người đôi khí giới Anh hàng thịt vung con dao sáng chói
Người lính già quắc thước múa chuôi gươm Và anh hàng giày quần áo rách tươm
Anh thợ dệt đang nằm sau cửa xưởng Cũng trỗi dậy oai nghi như võ tướng Giật thanh đao, khẩu súng ra ngoài
Những thằng con bé bỏng cũng giương oai Phồng má thổi kèn vang sau gót bố”
Chuyện về người phát minh ra máy hơi nước
Các máy kéo sợi và máy dệt ở Anh trước đây đều chạy bằng sức nước. Nhưng dùng công xưởng thủy lực tất yếu cần phải xây bên bờ sông ở làng quê, do giao thông đi lại bất tiện, vận tải khó khăn, thủy lực lại chịu ảnh hưởng của thời tiết, nên sản
lượng không được ổn định. Cần phải phát minh một loại máy nổ đặt ở bất kỳ chỗ nào cũng được. Đó là máy hơi nước.
Nhắc đến máy hơi nước, người ta liên tưởng ngay đến Giêm-oát (1736 - 1819) - nhà phát minh nổi tiếng nước Anh, xuất thân từ 1 anh thợ học nghề.
Oát từ nhỏ ưa thích suy nghĩ. Một lần ông nhìn thấy nước sôi trong bình làm bật nắp bình lên và phát ra tiếng kêu “phịch phịch”, ông hiếu kỳ hỏi bà nội: “Vì sao nắp bình lại nảy lên như vậy”? Bà nội bảo ông đó là sức mạnh của hơi nước bốc lên trong bình gây ra. Oát nghĩ bụng, sức mạnh của hơi nước có thể lớn thật, nếu như lợi dụng được nó thì tốt biết mấy. Sự việc này đã gợi mở cho ông phát minh ra máy hơi nước.
Giữa thế kỉ XVIII, ở nước Anh đã có máy hơi nước của Niu-cômen, tuy nhiên hiệu quả thấp, lại thường trục trặc lúc vận hành nên người ta ít dùng. Trên cơ sở máy hơi nước của Niu-cômen, Giêm Oát đã miệt mài nghiên cứu và chế tạo thành công một động cơ hơi nước kiểu mới có hiệu quả gấp năm lần máy hơi nước cũ. Sau đó, Giêm Oát tiếp tục cải tiến nâng cao năng suất máy. Máy hơi nước của Giêm Oát được đưa vào sử dụng rộng rãi trong đời sống và sản xuất, góp phần to lớn vào công cuộc công nghiệp hoá, cơ giới hoá nước Anh.
Để ghi nhớ công lao của Giêm Oát, sau khi ông mất, người ta tạc tượng ông và khắc lên đó dòng chữ: “Người nhân lên gấp bội sức mạnh của con người”
Bixmac- Vị thủ tướng “sắt và máu”
Bixmac sinh năm 1815 trong 1 gia đình quân phiệt Phổ ở Sin-han-den, từ nhỏ đã là người bướng bỉnh, lắm mưu mẹo, ham mê bạo lực, nổi tiếng tàn ác, thô lỗ.
Năm 1849 Bixmac được bầu vào Quốc hội Phổ, trong khi thừa hành nhiệm vụ, y đã tỏ ra là kẻ thù không đội trời chung của tư tưởng tự do và là kẻ tử thù của giai cấp công nhân, nông dân. Năm 1862 Bixmac lên làm thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao nước Phổ. Vừa lên cầm quyền, Bixmac đã tuyên bố trước Quốc hội: “Những vấn đề lớn của thời đại không thể định đoạt bằng những bài diễn văn hoặc bằng cách biểu quyết đa số mà phải giải quyết bằng “sắt và máu”. Từ đó, y được mệnh danh là viên Thủ tướng “Sắt và máu”. Bixmac chủ trương dùng vũ lực để thống nhất đất nước “từ trên xuống” thông qua chiến tranh với Áo, Đan Mạch và Pháp. Đối với nhân dân trong nước, y thường dùng những lời lẽ hoa mĩ để lừa phỉnh, bịp bợm nhân dân. Khi mục đích đã được, lập tức y quay lại đàn áp rất giã man phong trào đấu tranh của nhân dân.
Đi theo con đường tàn bạo và đầy mưu mô thủ đoạn của Bixmac sau này có Hit- le, Mút-xô-li-ni- những kẻ đã châm ngòi cho Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng cuối cùng bọn chúng vẫn không thể tránh khỏi sự trừng trị của loài người tiến bộ và chúng không thể thoát khỏi quy luật “gieo gió ắt gặp bão”.
Lin-côn- người giải phóng vĩ đại
A.Lin côn (1809- 1865) sinh ra trong một gia đình nghèo ở Mĩ. Từ nhỏ ông đã sớm lăn lộn kiếm sống nên thấu hiểu cuộc sống của người dân lao động, nhất là tầng lớp nô lệ. Theo ông, người da đen phải được hưởng tự do, bình đẳng như người da trắng, chế độ nô lệ là một tội ác cần phải đánh đổ. Do đó trong sự nghiệp chính trị của mình, ông luôn cố gắng thực hiện bằng được khao khát giải phóng người nô lệ.
Ngày 4-3-1861, Lin côn chính thức nhậm chức tổng thống thứ 16 của Mĩ. Ngày 1-1-1863, ông ra sắc lệnh tuyên bố xoá bỏ chế độ nô lệ, đến năm 1865 chế độ nô lệ hoàn toàn bị thủ tiêu trong cả nước.
Lin-côn là người khiêm tốn, chân thành, tận tụy với công việc, gắn bó với nhân dân. Thời kì vận động tranh cử, ông không có xe riêng, chỉ đủ tiền mua vé xe khách. Tới 1 địa phương nào đó, ông có thể ngồi trên xe ngựa của nông dân để đi khắp nơi và đứng trên xe ngựa nói chuyện với mọi người. Có người hỏi ông tài sản có bao nhiêu. Ông trả lời: “Tôi có 1 vợ và 1 con trai, đó là tài sản vô giá. Bản thân tôi vừa nghèo, vừa gầy, mặt dài có vẻ hãm tài. Cái duy nhất tôi có thể dựa vào được, đó là nhân dân”.
Tuy nhiên không lâu sau đó, một tên cuồng tín đã ám sát Lin côn. Đây là một tổn thất vô cùng to lớn đối với nước Mĩ. Nhân dân Mĩ thương tiếc, ca tụng ông, trìu mến gọi ông là “ Người giải phóng vĩ đại”
Cuộc CMVS ngày 18/3/1871 và sự thành lập Công xã Pari
Trong những năm 1850 — 1870. Ở Pháp, cách mạng công nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng. Sự tăng cường độ và thời gian lao động đối với công nhân (ngày làm việc kéo dài 13—14 giờ) và cuộc sống khó khăn do hậu quả của khủng hoảng kinh tế những năm 1860 — 1867 đã làm gay gắt thêm những mâu thuẫn giai cấp vốn có trong lòng xã hội tư bản, tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh mới của công nhân.
Trước tình hình đó, chính phủ Đế chế II do Na-pô-lê-ông III đứng đầu quyết định gây chiến với Phổ nhằm khắc phục nguy cơ khủng hoảng trong nước, về phía
Phổ, cũng muốn tiến hành chiến tranh để hoàn thành thống nhất nước Đức, đàn áp phong trào dân chủ trong nước.
Ngày 19-7-1870, chiến tranh Pháp — Phổ bùng nổ. Ngày 2-9-1870, toàn bộ đội quân Pháp và Na-pô-lê-ông III phải đầu hàng. Ngày 4-9-1870, nhân dân Pa-ri khởi nghĩa lật đổ Đế chế, đòi thiết lập chế độ cộng hoà và tổ chức kháng chiến chống quân Phổ. Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập mang tên Chính phủ Vệ quốc. Khi quân Phổ tiến về Pa-ri và bao vây thành phố, “Chính phủ Vệ quốc” đã trở thành “Chính phủ phản quốc”, quyết định đầu hàng và xin đình chiến, mở cửa cho quân Phổ tiến vào nước Pháp. Nhưng nhân dân Pa-ri đã tổ chức thành các đơn vị Quốc dân quân, tự vũ trang và xây dựng phòng tuyến bảo vệ thủ đô.
3 giờ sáng ngày 18-3-1871, Chính phủ cho quân đánh chiếm đồi Mông-mác, nơi tập trung đại bác của Quốc dân quân. Quần chúng nhân dân đã kịp thời kéo đến hỗ trợ Quốc dân quân, bao vây quân chính phủ.
Trưa 18-3, theo lệnh của uỷ ban trung ương Quốc dân quân, các tiểu đoàn tiến vào trung tâm thủ đô, chiếm được các cơ quan chính phủ, nhà ga, sở cảnh sát và toà Thị chính. Quân chính phủ phải rút chạy về Véc-xai để củng cố lực lượng. Quốc dân quân làm chủ thành phố.
Ngày 18-3-1871, lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền của giai cấp tư sản bị lật đổ. Uỷ ban trung ương Quốc dân quân đảm nhận chức năng của chính quyền mới, trở thành chính phủ lâm thời.
Lê-nin- Vị lãnh tụ vĩ đại của GCVS
V.I.Lênin (1870 - 1924), người tiếp thu và phát triển chủ nghĩa Mác (trở thành chủ nghĩa Mác – Lênin), người thành lập Đảng cộng sản và nhà nước Liên Xô; chiến sĩ cách mạng quốc tế của giai cấp công nhân, sáng lập quốc tế thứ ba (Quốc tế cộng sản).
Năm 1891, tốt nghiệp Đại học Luật với tư cách thí sinh tự do, năm 1893, tổ chức lãnh đạo những người Macxit ở Pêtecbua. Năm 1895 bị tù rồi bị đày đi Xibia. Năm 1900 hết hạn đày, cùng với các đồng chí xuất bản báo “Tia lửa”, truyền bá chủ nghĩa Mác vào PTCN Nga. Năm 1903, thành lập Đại hội công nhân xã hội dân chủ Nga, đa số đại biểu theo đường lối của V.I Lênin, xuất hiện phái Bôn sê vich.
Năm 1905, sau khi CM thất bại, Lênin ra nước ngoài sống hoạt động. Tháng 4- 1917, sau khi chế độ Nga hoàng bị lật đổ, Lênin về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc CM XHCN
Sau khi cách mạng tháng 10 năm 1917 thành công, V.I lênin được bầu làm chủ tịch Hội đồng uỷ viên nhân dân (dân uỷ). Tháng 8-1918 bị thương do mưu sát. V.I Lênin đã lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ nhà nước, thực hiện thành công chính sách Kinh tế mới, thành lập Liên bang CH XHCN Xô viết (Liên Xô).
Hoạt động lý luận thực tiễn cách mạng của V.I Lênin đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa với những học thuyết về xây dựng Đảng kiểu mới, về cương lĩnh xây dựng xã hội chủ nghĩa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đặng Đức An (chủ biên), Những mẩu chuyện lịch sử thế giới- tập 1, 2, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2002.
Đặng Đức An, Tư liệu giảng dạy LSTG cận đại, NXB GD, Hà Nội, 1985
Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2002.
Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt , Giáo dục học, tập 1, NXBGD, Hà Nội, 1987
N.G. Đairi, Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào. NXB GD, Hà Nội, 1973.
Nguyễn Văn Đằng, Phương pháp kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử ở THCS, NCGD, tháng 5, năm 2000.
Nguyễn Thế Hoàn, Lê Thúy Mùi, Những mẩu chuyện lịch sử- Quyển 1, 2 NXB Đại học sư phạm, Hà Nội, 2011
Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Phương pháp dạy học lịch sử, NXB Giáo dục, 1992.
Phan Ngọc Liên (chủ biên), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, NXB Hà Nôi, 2008.
Quỳnh Cư, Đỗ Đức Huy, Các triều đại phong kiến Việt Nam, NXB Thanh niên.
Sách giáo khoa, Sách giáo viên Lịch sử lớp 10, NXB GD, Hà Nội, 2012
Thái Hoàng, Ngô Văn Tuyển, Lịch sử nhìn ra thế giới, NXB Đại học Quốc gia.
Trần Thị Thu Hà, Một số biện pháp sử dụng những mẩu chuyện trong DHLS VN từ 1954- 1975 ở lớp 12 nhằm nâng cao hiệu quả bài học, khóa luận tốt nghiệp đại học, ĐHSP Hà Nội
ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ
Tên đề tài SKKN: “Một số biện pháp sử dụng mẩu chuyện lịch sử nhằm nâng cao hứng thú và tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử lớp 10” Người thực hiện: Hoàng Thị Hậu
Bộ môn: Lịch sử
Đơn vị công tác: Trường THPT Trần Quốc Tuấn
Nhận xét, đánh giá:
...
...
...
...
...
..
Xếp loại:
...
...
...
CHỦ TỊCH HĐKH CẤP CƠ SỞ

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_su_dung_mau_chuyen_tr.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng mẩu chuyện trong dạy học Lịch sử lớp 10 nhằm nâng cao.pdf