Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học phần lịch sử Việt Nam chương trình 10 ở trường THPT Mường Lát
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Là câu nói nổi tiếng của Bác Hồ khi bàn về tầm quan trọng của việc hiểu biết lịch sử dân tộc đối với mỗi con người Việt Nam. Mỗi người phải trau dồi cho mình kiến thức, hiểu biết về lịch sử để hoàn thiện bản thân. Để làm tốt được điều đó thì bộ môn lịch sử ở trường trung học phổ thông đóng vai trò rất lớn trong việc cung cấp và hình thành kiến thức về lịch sử dân tộc của các em học sinh trước khi đi ra cuộc sống. Tuy nhiên nhiều năm trở lại đây, một thực trạng đáng báo động là hiểu biết của học sinh về lịch sử nói chung, lịch sử dân tộc nói riêng rất hạn chế. Điều này được thể hiện trong kết quả các kì thi môn lịch sử rất thấp, thậm chí có những bài làm của học sinh còn nhầm, xuyên tạc nội dung lịch sử như ” Quang Trung-Nguyễn Huệ là hai người”, ”Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là hai anh em” hay chỉ thị rất nổi tiếng của Đảng ngày 12/3/1945 ” Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã bị học sinh xuyên tạc thành ” Nhật – Pháp bắn nhau Việt Nam vớ bở”... Vậy nguyên nhân của thực trạng đáng báo động trên là do đâu. Một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng đó là học sinh không muốn, không thích học lịch sử. Việc không thích học có thể xuất phát từ ý muốn chủ quan nhưng cũng không thể không kể đến yếu tố khách quan đóng một vai trò rất quan trọng. Đó là việc kiến thức lịch sử thường khá nặng, đa phần giáo viên chủ yếu dùng lại ở việc cung cấp tối đa kiến thức dẫn đến quá tải, không phát huy được sự chủ động của các em khiến các em chán nản không muốn học
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học phần lịch sử Việt Nam chương trình 10 ở trường THPT Mường Lát
hản hồi tích cực từ học sinh. Ví dụ khi dạy bài 16: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc từ thế kỉ I-X.. Giáo viên tham khảo trên mạng và có thể sử dụng đoạn phim 3D hoạt hình Đại chiến Bạch Đằng[6] hoặc Vạn Xuân chiến quốc [6] ở tất cả các lớp để các em xem. Thông qua đoạn phim đó các em sẽ nhận thấy rõ được nguyên nhân Nam Hán tấn công nước ta, tương quan so sánh lực lượng ra sao? Chiến thuật của ta dưới sợ chỉ huy của Ngô Quyền như thế nào? Kết quả của trận đánh. Đoạn phim hoạt hình ngắn gọn nhưng trực quan, dễ hiểu qua hình ảnh và thuyết minh khiến các em có cảm giác thoải mái vừa học vừa giải trí. Trên cơ sở sau khi trình chiếu đoạn phim giáo viên đặt câu hỏi liên quan đến nội dung cho học sinh trả lời và khái quát. Nguồn tư liệu phim ảnh lấy ở đâu? Hiện nay, đài truyền hình Việt Nam trên vtv1 vào khung 22h có chiếu các bộ phim hoạt hình về lịch sử Việt Nam, giáo viên chúng ta có thể lấy đó là nguồn tư liệu bổ ích cung cấp cho quá trình dạy học 2.3.4. Kể chuyện nhân vật, sự kiện lịch sử Dạy-học lịch sử không chỉ là quá trình truyền đạt-tiếp nhận kiến thức trong sách giáo khoa giữa giáo viên và học sinh mà mục tiêu còn cần đạt về tư tưởng, kĩ năng. Từ bài học đó em có thái độ như thế nào đối với nhân vật, sự kiện lịch sử, rút ra bài học cho bản thân, kĩ năng trong cuộc sống. Lịch sử Việt Nam là những trang sử vẻ vang đầy vàng son về những thời kì đã qua, những nhân vật anh hùng trong lịch sử. Mỗi nhân vật anh hùng là tấm gương sáng để thế hệ đi sau noi theo, mỗi giai đoạn với chính sách quản lí đất nước là bài học cho việc vận dụng vào thực tiễn đất nước ngày nay. Nếu trong quá trình dạy học lịch sử chỉ dừng lại tái hiện cuộc đấu tranh, kháng chiến, khởi nghĩa này do nhân vật này hay nhân vật kia lãnh đạo, thắng lợi hoặc thất bại là chưa đủ. Như vậy sẽ không tạo được ấn tượng sâu sắc trong học sinh về nhân vật và cuộc đấu tranh đó Để đạt được hiệu quả trong mỗi tiết dạy khi đề cập đến nhân vật, sự kiện lịch sử tiêu biểu giáo viên thường kết hợp cho học sinh quan sát hình ảnh và kể một vài câu chuyện về nhân vật, sự kiện. Đó có thể là những câu chuyện các em đã được học, đọc hoặc bây giờ các em mới biết đến. Giáo viên lựa chọn những câu chuyện ngắn gọn, phù hợp với nội dung bài học. Có thể khi nghe xong câu chuyện, các em không nhớ chi tiết câu chuyện, chính xác niên đại cụ thể nhưng ít ra các em có thể nhớ và hình dung đó là một nhân vật như thế nào (tài năng, dũng cảm, thông minh, yêu nước), hay đó là một cuộc đấu tranh đầy hi sinh nhưng rất đỗi tự hào của dân tộc. Và đặc biệt sẽ cho các em thấy tiết học không nhàm chán và gò bó, được thay đổi không khí tiết học Ví dụ khi dạy bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X-XV. Mục II. Kháng chiến chống Mông-Nguyên ở thế kỉ XIII. Đây là một trong những trang lich sử chói lọi của dân tộc khi chúng ta có thể đánh thắng một dạo quân hùng mạnh trên thế giới thời bấy giờ. Yếu tố nào đã tạo nên chiến thắng vẻ vang đó? Không thể không kể đến nguyên nhân về sự lãnh đạo tài tình của các vị vua vị tướng, sự đồng lòng nhất trí của nhân dân cả nước. Để minh chứng cho nguyên nhân này giáo viên không thể không kể câu chuyện về hội nghị Diên Hồng khi các bô lão cùng đồng thanh hô vang “ ĐÁNH”, hay hội nghị Bến Bình Thanh với câu chuyện Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản vì nhỏ tuổi không được tham dự hội nghị bàn việc nước đã tức giận bóp nát quả cam vua ban trong tay lúc nào không hay, câu chuyện về nhân vật Yết Kiêu. Qua những chuyện này GV khẳng định cho học sinh thấy được sự đồng lòng nhất trí cao độ của quân dân, tinh thần yêu nước nồng nàn của người dân Việt Nam ngay cả khi còn nhỏ tuổi trước khi tổ quốc bị xâm lăng. Và đặc biệt sẽ là thiếu sót nếu giáo viên không tạo biểu tượng về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với tài năng, trí tuệ, tấm lòng trung nghĩa, tầm nhìn xa trông rộng Để tạo biểu tượng nhân vật này giáo viên sơ lược về tiểu sử và có thể kể câu chuyện về ông như sau: Năm 1285, quân Mồng nguyên ồ ạt tấn công nước ta lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn ra lệnh rút quân để bảo toàn lực lượng và cho nhân dân dùng chiến thuật “vườn không nhà trống”. Giặc vào Thăng Long rồi tiến sâu xuống Thiên Trường nơi đóng bộ chỉ huy của ta. Vua Trần THánh Tông lo ngại, ướm hỏi oongxem có nên hàng không. Ông khẳng khái trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi đi rồi hãy ra hàng!”. Năm 1288, giặc một lần nữa kéo sang xâm lược nước ta. Vua Trần lại hỏi ông: “Năm nay giặc thế nào?”. Ông đáp: “Năm nay giặc đến dễ đánh”. Bấy giờ đoàn thuyền lương của giặc bị tiêu diệt ở Vân Đồn (Quảng Ninh). Bộ binh của chúng chờ mãi không được, quyết định rút lui. Nắm ý đồ đó ông bố trí lực lượng, tiêu diệt toàn bộ đạo binh thuyền của giặc, làm nên trận Bạch Đằng lịch sử. Đất nước trở lại yên bình. Trần Quốc Tuấn không chỉ là một nhà quân sự thiên tài mà còn là một người có đạo đức trong sáng. Sử chép rằng: cha ông khi sắp mất, cầm tay ông mà trối rằng: “Con không vì cha mà lấy lại thiên hạ thì cha chết cũng không nhắm được mắt”. Ông rất thương cha nhưng không cho là phải. Có lần ông đem chuyện này nói với các con ông. Hưng Vũ vương Quốc Nghiễm thưa: “Việc ấy đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là người trong cùng một họ”. Quốc Tuấn lấy làm phải. Nhưng Hưng Nhượng vương Quốc Tảng lại nói rằng: “Tống Thái Tổ là một người làm ruộng, chỉ nhờ gặp thời vận mà lấy được thiên hạ”. Quốc Tuấn liền tuốt gươm ra nói: “Bọn bề tôi phản loạn đều chính do những đứa con bất hiếu mà ra”. Nói rồi có ý giết đi. Quốc Nghiễm vội chạy ra xin, nhận tội thay, mãi sau mới được tha. Khi ông sắp mất, bảo Quốc Nghiễm rằng: “Khi ta mất, đậy nắp quan tài đâu đó xong xuôi rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng khóc”. Năm 1300, ông ốm nặng, vua Trần Anh Tông đén thăm, nhân tiện hỏi: “Chẳng may Quốc công mất, giặc phương Bắc đến xâm lược thì làm thế nào?”. Ông dặn rằng: “Mới rồi, Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, nhưng vì vua tôi đồng lòng, cả nước góp sức nên giặc chịu bị bắt. Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu bền gốc rễ, đó là thượng sách để giữ nước”[152, 2] Thông qua câu chuyện trên giúp học sinh hình dung về một nhân vật vừa có tài vừa có đức, một con người luôn vì lợi ích của quốc gia, dân tộc. Để có được những câu chuyện bổ ích, lí thú giáo viên có thể tham khảo trong cuốn sách Những mẫu chuyện lịch sử của NXB Đại học sư phạm làm nguồn tư liệu bổ ích trong quá trình giảng dạy. 2.3.5. Vận dụng kiến thức liên môn Dạy học liên môn hiểu một cách đơn giản nhất là quá trình kết hợp kiến thức của các môn học có liên quan để bổ sung kiến thức cho nhau. Liên môn trong dạy học sẽ tạo ra mối liên kết, liền mạch giữa các môn học. Trong dạy học lịch sử thường liên môn với kiến thức văn học, địa lí, giáo dục công dân, âm nhạc, hội họa. Khi dạy về một cuộc khởi nghĩa ứng với nó là một địa điểm và Gv sẽ giới thiệu về vị trí của địa điểm đó bằng kiến thức môn địa lí. Đặc biệt trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều tư liệu đề cập đến các giai đoạn lich sử bằng thơ, văn, ca dao tục ngữ. Ví dụ khi dạy về hào khí chiến đấu của quân và dân thời Trần ba lần chống quân Mông-Nguyên không thể không liên hệ tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi; nghệ thuật điêu khăc tinh xảo thế kỉ XVI-XVIII gắn liền với Các vị La Hán chùa Tây Phương của Huy Cận Và gần gũi hơn đó là những câu ca dao tục ngữ ngắn gọn, dễ nhớ, dễ đi vào tiềm thức của các em Ví dụ Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỷ XVI –XVIII. Mục 2. Thời kì đất nước bị chia cắt Sau thời kỳ Lê - Mạc đất nước lại tiếp tục rơi vào tình trạng Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia làm hai Đàng lấy Sông Gianh (Quảng Bình) làm ranh giới phân chia. Thực trạng đau lòng đó đã đực thể hiện trong câu ca: “Sông Gianh nước chảy đôi dòng Đèn chong đôi ngọn biết trông ngọn nào?” Và chúa Nguyễn đã cho xây dựng Luỹ Thầy để làm căn cứ quân sự tấn công Lê - Trịnh nhưng không có kết quả, dân gian có câu ca: “Ô Luỹ Thầy ai đắp mà cao Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu Có tài thì vượt sông Gianh Dẫu mọc thêm cánh Trường thành khó qua.” 2.3.6. Liên hệ thực tế Chủ trương giáo dục học đi đôi với hành. Khác với những môn học khác, thực hành với lịch sử không phải là tái hiện lại, diễn lại nội dung lịch sử đó mà là tìm hiểu và biết về quá khứ từ quá khứ chúng ta rút ra quy luật, bài học cho hôm nay. Từ việc tìm hiểu nhân vật lich sử bất kì, học sinh tự soi bản thân mình vào nhân vật đó để rèn luyện bản thân. Từ cuộc đấu tranh gian khổ của dân tộc, học sinh có thái độ biết ơn với thế hệ đi trước, tự hào về lịch sử và từ đó xác định trách nhiệm của bản thân đối với đất nước. Sau mỗi nội dung lịch sử dân tộc, giáo viên yêu cầu học sinh rút ra nhận xét và trách nhiệm của mình, gắn bài học với thực tiễn Ví dụ khi dạy bài 15. Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập từ thế kỉ X-XV. Mục II.2. Những chuyển biến về văn hóa xã hội Sau khi theo dõi sách giáo khoa dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chốt lại kiến thức về mặt văn hóa dưới thời Bắc thuộc là: Chúng ta không bị đồng hóa về mặt văn hóa; tiếp tục duy trì và bảo vệ được những yếu tố văn hóa truyền thống; tiếp nhận và Việt hóa những yếu tố văn hóa tích cưc Từ cở sở kiến thức của bài học giáo viên đặt vấn đề: Hiện nay dân tộc các em có nét đặc trung gì nổi bật về văn hóa? Trong nội quy nhà trường quy định như thế nào trong việc duy trì nét văn hóa đó? Ý thức thực hiện của các em ra sao? Từ những câu hỏi gắn kiền với thực tiễn dân tộc, nhà trường, vùng miền đó, học sinh sẽ ý thức được vai trò của mình trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa, thực hiện thành công câu nói của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng “ Chúng ta hòa nhập không hòa tan”. Để từ đó các em nhận thức được lịch sử là cái đã qua nhưng kết quả của lịch sử là ngày hôm nay và bản thân mỗi chúng ta có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ. Và trong từng nội dung lích sử và bài học khác nhau chúng ta có sự liên hệ hợp lí để tạo ra mối dây liên hệ giữa quá khứ và hiện tại. 2.3.7. Củng cố bài học bằng trò chơi nhận diện lịch sử Củng cố bài học là khâu không thể thiếu trong quá trình tổ chức dạy học. Trong mỗi tiết dạy, mỗi giáo viên lựa chọn cho mình cách củng cố khác nhau phù hợp với từng lớp. Vào cuối giờ học, HS thường bị phân tán, mệt mỏi, thiếu sự tập trung. Trong hoàn cảnh như vậy, GV tổ chức trò chơi lịch sử sẽ thu hút sự chú ý, tăng hứng thú học tập của HS. Khi ấy, giờ học bớt căng thẳng, nặng nề và trở nên nhẹ nhàng, sinh động, tạo cảm giác mới lạ, thoải mái, dễ chịu cho người học. Với dạy học lịch sử, GV có thể vận dụng nhiều trò chơi lịch sử khác nhau: trò chơi gắn liền với các “game show” trên truyền hình, trò chơi giải ô chữ, trò chơi tìm hiểu về sự kiện, nhân vật, hùng biện..., trong đó có trò chơi nhận diện lịch sử tôi thấy phù hợp với đối tượng lớp 10 tại trường. Với cách tổ chức củng cố như vậy, GV làm tiết học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn, tăng cường hứng thú và khả năng ghi nhớ kiến thức của HS. Để góp phần kích thích học sinh, giáo viên kết hợp cho điểm với những em có nhiều câu trả lời đúng. Ví dụ khi dạy Bài 27. Quá trình dựng nước và giữ nước. GV ôn tập cho HS bằng trò chơi nhận diện lịch sử. Cách tổ chức như sau: - GV đưa ra hình ảnh yêu cầu học sinh xác định sự kiện, nhân vật lịch sử + Bức hình số 1: Đây là hình ảnh gắn liền với nền văn hóa nào ở Việt Nam? + Bức hình số 2 : Đây là tục lệ gì của nước ta? + Bức hình số 3: Nội dung của bức hình này phản ánh điều gì + Bức hình số 4: Đây là hai nhân vật nào? Gắn liền với sự kiện lịch sử gì? + Ô số 5: Sự kiện này diễn ra ở đâu? Khi nào? Gắn liền với tên tuổi của ai? Ý nghĩa của sự kiện? + Bức hình số 6: Hình ảnh gợi nhớ đến thời kì lịch sử nào? + Bức tranh số 7: Đây là ba nhân vật lich sử nào? Gắn liền với phong trào nào? Ý nghĩa của phong trào đó? + Bức hình số 8: Bức hình gợi nhớ đến dòng văn học gì ở Việt Nam? Phát triển nở rộ dưới triều đại nào?? - HS dựa vào kiến thức đã học cùng với những gợi ý về các bức hình để trả lời. - Đáp án: + Số 1: Nền văn hóa Đông Sơn + Số 2: Tục lệ ăn trầu, nhuộm răng đen + Số 3: Thầy đồ dạy chữ Nho gắn liền với nền giáo dục Nho học + Số 4: Hai Bà Trưng và cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng + Số 5: Sông Bạch Đằng. Năm 938 gắn liền với tên tuổi của Ngô Quyền. Kết thúc 1000 năm Băc thuộc mở ra thời đại độc lập tự chủ lâu dài + Số 6: Đất nước bị chỉa cắt thành Đàng Trong-Đàng Ngoài lấy sông Gianh làm ranh giới phân chia + Số 7: Ba anh em Nguyến Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Phong Trào Tây Sơn. Hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước cuối thế kỉ XVIII + Số 8: Dòng văn học chữ Nôm. Phát triển nở rộ dưới thời Nguyễn Như vậy bằng cách sử dụng một vài bức tranh chúng ta có thể giúp học sinh củng cố bài học theo một hướng mới, kích thích tư duy, sự hứng thú của các em, tránh sự nhàm chán 2.4. Hiệu quả của sáng kiến Đối với học sinh Trường THPT Mường Lát việc tạo hứng thú học tập là cả vấn đề, do nhiều yếu tố nên bước đầu số học sinh hứng thú với môn học vẫn còn hạn chế. Tôi mong rằng với đề tài này cộng với sự tâm huyết của thầy cô, say mê học hỏi của học sinh thì hiệu quả sẽ tốt hơn 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận Học sinh hứng thú với môn học của mình là điều mà bất kì giáo viên nào cũng muốn. Trên đây là một số biện pháp tôi đưa ra và cố gắng thực hiện trong bộ môn của mình với mong muốn khơi dậy niềm đam mê, ý thức học tập, nghiên cứu lịch sử dân tộc để từ đó hoàn thiện bản thân học sinh. Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu đề tài này bản thân còn nhiều thiếu xót. Kính mong sự góp ý của các đồng chí để đề tài hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả hơn Kiến nghị Thông qua đề tài tôi có một số kiến nghị như sau - Thứ nhất, giáo viên phải thật tâm huyết trong quá trình giảng dạy, cố gắng nắm bắt tâm lí học sinh, phải dạy theo phân hóa đối tượng học sinh - Thứ hai, gv cần có sự chuẩn bị kĩ cả về giáo án và đồ dùng dạy học. Chuẩn bị sẵn hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức - Thứ ba, tạo ra môi trường học tập công bằng, thân thiện. Khen thưởng, động viên kịp thời, tránh chê bai gây căng thẳng, chán nản - Thứ tư, trong quá trình áp dụng, giáo viên cần sử dụng hợp lí các phương pháp. Từng phương pháp sẽ có ưu thế với từng bài. Tránh lạm dụng gây loãng kiến thức - Thứ năm, nhà trường bố trí tăng cường hệ thống phòng máy để thuận tiện trong dạy học, tránh phải di chuyển lớp học gây ảnh hưởng đến thời gian, tổ chức lớp học XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 10 tháng 05 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN do chính tôi viết, không copy của người khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Bùi Thị Nhung TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa lịch sử 10 Chương trình chuẩn. Nhà xuất bản giáo dục 2. Những mẫu chuyện lịch sử (tập 1), Nhà xuất bản Đại học sư phạm 3. Sách giáo viên lịch sử 10. Nhà xuất bản Giáo dục 4. Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng trong cuốn“Hướng dẫn sử dụng kênh hình sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 trung học phổ thông” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 2009) 5. Trang web: giasunhanvan.com, trang thanhnien.vn, trang edu.vn 6. Trang web: youtube.com
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc.doc

