Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh yêu thích môn Lịch sử lớp 4

Môn Lịch sử ở Tiểu học nói chung, môn Lịch sử lớp 4 nói riêng đều nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước (khoảng năm 700 trước công nguyên) đến năm 1858. Dạy Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết các kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam và thêm yêu mến tự hào về lịch sử dân tộc. Lịch sử là môn học hỗ trợ đắc lực cho các môn học khác, nó không chỉ có tác dụng quan trọng trong việc phát triển trí tuệ mà còn cả giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ…với những người thật, việc thật, là cơ sở vững chắc cho việc giáo dục niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, truyền thống dân tộc, truyền thống yêu nước, giáo dục tinh thần và thái độ lao động đúng đắn, lòng biết ơn với tổ tiên, với những người có công với Tổ quốc.
docx 12 trang SKKN Lịch Sử 05/03/2025 270
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh yêu thích môn Lịch sử lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh yêu thích môn Lịch sử lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh yêu thích môn Lịch sử lớp 4
 của những vị tướng chỉ huy trận đánh cũng như tinh thần chiến đấu dũng cảm của ta từ đó giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho các em. 
Ví dụ ở bài: “Quang Trung đại phá quân Thanh” (Năm 1789) khi quan sát lược đồ dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh thấy các hướng tiến công và phòng ngự của quân ta. Cách chọn vị trí chặn đường rút lui của địch của ta, từ đó các em phân tích để thấy nghệ thuật quân sự tài tình của Quang Trung đã giúp quân ta đại phá quân Thanh xâm lược. Cũng qua lược đồ HS kể lại được trận Ngọc Hồi, Đống Đa.
Lược đồ Quang Trung đại phá quân Thanh
- Loại kênh hình thứ hai là tranh, ảnh tư liệu: Đó là tranh ảnh về các cuộc khởi nghĩa, các cuộc biểu tình, về tình hình chính trị, kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân, về các thành tựu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuậtcủa mỗi triều đại ứng với mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với loại bài này, người giáo viên phải am hiểu đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật của mỗi thời kỳ mới có thể hiểu và khai thác tốt kênh hình phục vụ việc giảng dạy đạt hiệu quả cao. Việc khai thác tranh ảnh thể hiện các thành tựu văn hoá như điêu khắc, kiến trúc, các giá trị văn hoá phi vật thể là khó khăn hơn cả với người giáo viên vì đây là những lĩnh vực không dễ hiểu và càng không dễ chuyển tải đến học sinh, nhất là học sinh tiểu học. Vì vậy giáo viên cần có sự đầu tư sưu tầm tranh ảnh liên quan đến nội dung bài học, chuẩn bị chu đáo các tư liệu về các giá trị văn hóa của các nhà nghiên cứu Lịch sử có ở trên sách báo và trên các trang mạng. Tất nhiên khi diễn đạt ý này cho học sinh tiểu học phải bằng thứ ngôn ngữ và cách diễn đạt phù hợp với nhận thức của các em, đặc biệt phải bằng các hình ảnh tư liệu trực quan.
Ví dụ: Khi dạy bài “Trường học thời Hậu Lê” HS được quan sát tranh, ảnh về Nhà Thái học trong Văn miếu Quốc Tử giám, các tấm bia tiến sĩ trong văn miếu để HS hiểu hơn về trường học và việc tổ chức thi cử ở thời Hậu Lê.
Nhà Thái học trong Văn Miếu (Hà Nội)
c. Dạy học lịch sử bằng trò chơi
Trong các giờ lịch sử giáo viên có thể tổ chức các trò chơi cho học sinh tham gia dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Trò chơi đoán tên nhân vật lịch sử: bằng câu đố hoặc câu chuyện lịch sử, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm ra nhân vật lịch sử mình muốn nhắc tới. Để tạo kích thích tâm lí, có thể trao thưởng cho các em đoán đúng.
- Ghép hình nhân vật lịch sử: Giáo viên có thể tạọ những mảnh ghép từ hình ảnh các nhân vật lịch sử để tổ chức cho học sinh thi ghép hình rồi đoán tên nhân vật mình ghép được. Trò chơi này có thể áp dụng trong các giờ sử dạy về nhân vật lịch sử. Cách làm này sẽ giúp học sinh nhớ lâu hơn về những nhân vật được học đồng thời tạo cảm xúc đặc biệt với nhân vật đó.
- Trò chơi ô chữ: Đây là trò chơi khá quen thuộc trên chương trình Rung chuông vàng. Với trò chơi này, giáo viên có thể dùng phần mềm Violet, Powpoint để thiết kế tùy theo nội dung mình cần. Thông thường, tôi sẽ sử dụng nó trong các giờ ôn tập để giúp học sinh định hình lại kiến thức một cách vui vẻ.
- Trò chơi sắm vai: Giáo viên có thể thiết kế một số câu chuyện lịch sử thành những mẩu kịch ngắn để cho học sinh thi đóng kịch. Qua đó, học sinh sẽ tự tìm hiểu về các nhân vật lịch sử để diễn sao cho đạt. Kết quả, học sinh sẽ được nhìn sự kiện, nhân vật lịch sử theo cách của trẻ con, và chúng ta sẽ có những giờ sinh hoạt lớp vui vẻ nhưng lại thực hiện được mục đích giáo dục của mình một cách nhẹ nhàng.
d. Dạy học lịch sử bằng thi viết, giới thiệu hoặc thi kể về nhân vật lịch sử.
 Sau mỗi một giờ học lịch sử, tôi thường có một bài tập vận dụng nhỏ cho học sinh dưới hình thức thi viết. Yêu cầu của giáo viên cũng chỉ đơn giản, ví dụ:
- Kể lại những gì em biết về Ngô Quyền.
- Hãy viết một đoạn văn ngắn 7- 10 câu, kể về nước Văn Lang.
Học sinh có thể viết và sau đó giáo viên đánh giá, cùng cả lớp bình chọn bài viết tốt, trao thưởng và đưa bài của các em lên bảng tin của lớp. Hoặc với việc kể chuyện, giáo viên có thể cho học sinh kể chuyện thay cho việc kiểm tra bài cũ để tạo cảm hứng cho các em vào đầu giờ học mới, cũng có thể tổ chức thi kể trong các giờ sinh hoạt tập thể theo chủ đề. Việc tổ chức những hoạt động này, mục đích giúp học sinh ghi nhớ, khắc sâu một cách tự nhiên kiến thức, vừa kích thích cảm xúc của học sinh, vừa tạo ra động lực để học sinh tự tìm hiểu về lịch sử.
e. Dạy học lịch sử bằng trò chơi dân gian và các hoạt động văn hóa dân gian:
Những trò chơi dân gian vốn dĩ được hình thành trong quá trình hình thành lịch sử. Vì thế, việc tổ chức cho học sinh tham gia vào trò chơi dân gian kết hợp với việc giáo viên dùng hiểu biết của mình để giới thiệu về nguồn gốc xuất xứ của các trò chơi đó cũng là một cách giáo dục lịch sử và cả văn học cho học sinh. Hiểu được về trò chơi dân gian là học sinh được trải nghiệm lại quá khứ. Nếu thực sự giáo viên biết khéo léo vận dụng nội dung lịch sử thì việc khắc sâu tinh thần dân tộc và ý thức lịch sử cho học sinh là việc hoàn toàn có thể làm được. Tận dụng những cơ hội trải nghiệm khi học sinh đi dã ngoại hoặc khi địa phương có hội để tranh thủ dạy lịch sử bằng trò chơi dân gian và hoạt động văn hóa cho học sinh cũng là một cách làm có hiệu quả:
Ví dụ:
+Đấu vật - Dạy truyền thống yêu nước thời nhà Trần
+Xem hội nấu cơm thi: Dạy về trẩy quân đánh trận của người Việt cổ
+Xem bắn nỏ (Loa thành): Dạy học sinh về hoạt động quân sự thời An Dương Vương
+Xem lễ hội - dạy nguồn gốc lễ hội và giá trị lịch sử của nó với thôn làng.
+Khi học sinh tham gia sân chơi Trạng nguyên Tiếng Việt trên internet- Học sinh hiểu biết thêm về việc tổ chức dạy học và thi cử ở thời Hậu Lê.
g. Nghệ thuật của giáo viên trong dạy học Lịch sử:
Việc áp dụng các biện pháp trên không thể không nói đến nghệ thuật của giáo viên trong dạy học môn lịch sử:
Trước hết là tạo không khí vui vẻ trong lớp học: Để giúp học sinh có hứng thú học tập giáo viên cần tạo không khí thật vui vẻ, thoải mái để học sinh có điều kiện học tập tốt nhất. Giáo viên cần thực hiện linh hoạt các hình thức hoạt động học tập phong phú, đa dạng để học sinh tích cực, chủ động tham gia vào quá trình học tập.
Bài giảng truyền cảm, thu hút được sự chú ý của học sinh: Môn Lịch sử có tác động lớn đến tư tưởng, tình cảm của học sinh do đó giáo viên phải làm cho giờ dạy thật sinh động. Điều này phụ thuộc rất lớn vào lời nói, cử chỉ của giáo viên. Giáo viên cần diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, ngắn ngọn, dễ hiểu và cuốn hút kèm với cử chỉ thân thiện khơi dậy trong tâm hồn học sinh lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, yêu những trang sử hào hùng của dân tộc.
Liên hệ thực tế giáo dục cho học sinh: Qua các sự kiện lịch sử giáo viên nên liên hệ thực tế để giáo dục học sinh, gắn học đi đôi với hành, thông qua đó học sinh hiểu rõ nội dung bài hơn.
Không ngừng làm mới bản thân: Học sinh lớp 4 mới bắt đầu làm quen với môn Lịch sử nên tò mò và ham học hỏi. Nếu giáo viên lúc nào cũng chỉ dạy theo một vài phương pháp cổ điển thì sẽ gây nên sự nhàm chán đối với học sinh. Vì thế, người giáo viên phải không ngừng làm mới mình, luôn gây cho học sinh sự ngạc nhiên, hứng thú để tự học sinh khám phá những điều mới lạ.
Kích thích sự tò mò của học sinh: Mỗi bài học lịch sử là một câu chuyện hấp dẫn, nếu không khơi gợi sự chú ý của học sinh thì nó như một quyển sách cất kĩ trên giá sách. Vì vậy giáo viên cần giới thiệu bài mới nhằm thu hút sự chú ý của học sinh ngay cuối bài giảng tiết trước khi dặn dò học sinh chuẩn bị bài sau.
Trên đây chỉ là một vài cách làm của cá nhân tôi trong quá trình tham gia giảng dạy trên lớp. Nhưng trên hết, tôi nghĩ rằng, muốn đem môn Lịch sử đến với học sinh một cách gần gũi,  hiệu quả, bản thân giáo viên phải thấy được tầm quan trọng của môn học, phải có tư duy rõ ràng và mục đích dạy học đúng đắn. Giáo dục lịch sử là giáo dục tình yêu quê hương đất nước, cần cho các em thấy được những vấn đề và thực tế lịch sử đã xảy ra trên quan điểm của Đảng và Nhà nước. Muốn làm được việc đó, giáo viên phải hiểu đúng cái mình muốn dạy, đừng thụ động những nội dung trong sách giáo khoa, đừng lệ thuộc những phương pháp đã cũ. Tự làm mới mình và dẫn dắt học sinh đi theo con đường tự học, tự tìm hiểu trên cơ sở của tình yêu, niềm ham thích và xúc cảm say mê với môn học. Có như thế, chúng ta mới có thể đạt được những giá trị thực tế của một giờ dạy đúng nghĩa trong thời đại hiện nay.
5.2. Khả năng áp dụng của biện pháp
Về khả năng áp dụng của biện pháp: Biện pháp được tôi áp dụng trong trường mình đang công tác và thấy mang lại hiệu quả thiết thực. Ngoài việc áp dụng trong việc tạo hứng thú cho học sinh yêu thích môn Lịch sử lớp 4 còn có thể vận dụng một cách linh hoạt ở các môn học khác ở lớp 4, như là môn Tiếng Việt, môn Địa lý Ngoài ra biện pháp của tôi cũng có thể áp dụng ở việc dạy học môn Lịch sử ở lớp 5 và tất cả các lớp cấp THCS, THPT.
6. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp:
Để thực hiện các biện pháp đạt hiệu quả cần lưu ý một số điều kiện sau:
- Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lý lớp 4;
- Phòng học đạt chuẩn; 
- Có đủ điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc dạy học phân môn Lịch sử như tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, sa bàn, tư liệu lịch sử.
- Việc giao nhiệm vụ của giáo viên phải rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ và cần có sự chuẩn bị chu đáo về đề tài làm việc.
- Học sinh cần đọc trước nội dung trong SGK, sưu tầm tranh ảnh, tư liệu phục vụ việc học môn Lịch sử đạt hiệu quả hơn.
- Phát huy tốt vai trò của việc dạy học theo nhóm, phát huy tính tích cực chủ động của HS trong việc chiếm lĩnh kiến thức.
- Giáo viên: Giáo viên giảng dạy có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, quan tâm và thương yêu học sinh. Giáo viên có ý thức tự học hỏi, trau dồi để nâng cao kiến thức, chuyên môn và nghiệp vụ.
- Phụ huynh học sinh thường xuyên phối kết hợp chặt chẽ với nhà trường và giáo viên chủ nhiệm để nắm được các hoạt động của nhà trường và tình hình học tập của con mình. Xây dựng tủ sách gia đình để tạo điều kiện cho con có cơ hội đọc sách, tìm hiểu về các vấn đề lịch sử trong và ngoài nước. Luôn tạo điều kiện cho con có cơ hội kể chuyện và nghe kể chuyện lịch sử cùng với cha mẹ.
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng biện pháp:
Sau gần một năm áp dụng đề tài vào thực tế dạy học tôi thấy học sinh hào hứng, phấn khởi khi đến giờ học Lịch sử, các em đã thay đổi cách suy nghĩ về môn học này, đây không còn là môn phụ nữa, cũng không còn là môn học lạ lẫm và khô khan như trước đây.
Những biện pháp tài này đã được bản thân tôi vận dụng vào thực tế dạy học và mang lại kết quả khả quan. Chất lượng dạy học môn Lịch sử được nâng lên đáng kể.
Cụ thể như sau:
* Trước khi áp dụng
Thống kế chất lượng phân môn Lịch sử

TSHS
HS yêu thích học Lịch sử
HS biết học môn Lịch sử
HS chưa thích học môn Lịch sử
SL
%
SL
%
SL
%
35
4
11,4
25
71,4
6
17,2
* Sau khi áp dụng
Thống kế chất lượng phân môn Lịch sử

TSHS
HS yêu thích học Lịch sử
HS biết học môn Lịch sử
HS chưa thích học môn Lịch sử
SL
%
SL
%
SL
%
35
30
85,7
5
14,3
0
0
Từ kết quả thu được thông qua bảng thống kê trên, kết quả thay đổi khá cao. Tôi nhận thấy: Sau khi áp dụng biện pháp này chất lượng của lớp tôi thay đổi rõ rệt. Học sinh ngày càng yêu thích môn Lịch sử vì vậy mức hoàn thành tốt tăng cao hơn so với tỉ lệ trước khi áp dụng biện pháp, tỷ lệ này tăng theo quá trình học tập. Trước khi áp dụng chỉ là 4 em chiếm 11,4% nhưng sau khi áp dụng thì tăng thêm 26 em là 30 em chiếm 85,7%. Đặc biệt là không còn có học sinh chưa biết đến môn Lịch sử và không thích học môn Lịch sử. 
Hầu hết giáo viên ở trường tôi đã thay đổi cách suy nghĩ khi giảng dạy môn Lịch sử và đã có sự quan tâm xứng đáng đến môn học này.
8.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng biện pháp theo ý kiến của tác giả:
a) Mang lại lợi ích xã hội: 
Lợi ích xã hội mà sáng kiến mang lại là rất lớn. Cụ thể:
- Nhà trường: Nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử nói riêng và các môn học khác trong chương trình Tiểu học nói chung, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
- Giáo viên: Giáo viên ngày càng "vững" về chuyên môn nghiệp vụ, có những tiết dạy hay, hấp dẫn, kể cả giáo viên trẻ cả về tuổi đời và tuổi nghề. 
- Học sinh: Việc tìm hiểu lịch sử cội nguồn dân tộc rèn cho học sinh thói quen tốt, thái độ tốt, giúp cho học sinh hình thành tình yêu quê hương đất nước, có lòng biết ơn sâu sắc tới thế hệ cha ông... 
- Xã hội: Khi học sinh yêu thích môn Lịch sử sẽ giúp chất lượng học tập môn Lịch sử cao hơn, hiệu quả hơn. Bồi dưỡng cho các em tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; tình yêu cái đẹp, yêu cội nguồn dân tộc; hứng thú đọc sách và tìm hiểu về lịch sử trong nước và cả thế giới.
b) Mang lại hiệu quả kinh tế: 
Biện pháp được tôi áp dụng tại trường mình đang công tác đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, cụ thể như sau:
- Về nhà trường: Từ khi áp dụng các giải pháp tạo hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Lịch sử cho học sinh lớp 4 tại nơi mình công tác, kết quả học sinh hào hứng, phấn khởi khi đến giờ học Lịch sử, các em đã thay đổi cách suy nghĩ về môn học này, đây không còn là môn phụ nữa, cũng không còn là môn học lạ lẫm và nhàm chán như trước đây.
- Về giáo viên: Vận dụng các giải pháp dạy học trên, tôi thấy chất lượng môn Lịch sử dần dần được nâng cao, giúp giáo viên vui vẻ , thoải mái trong các tiết học tiếp theo của mình.
- Ngoài ra, nhà trường và giáo viên tiết kiệm được một khoản tiền mua sắm tranh ảnh, lược đồ, bản đồ khi thực hiện các bài dạy lịch sử. Cụ thể:
 1 tiết Lịch sử tôi đi in tranh hết ít nhất: 30.000đ
 Mà 1 năm học có 35 tuần tương ứng với 35 tiết Lịch sử thì tôi sẽ mất 30.000 x 35 = 1.050.000 đ
- Đồng thời cũng giúp phụ huynh không phải bỏ ra một khoản tiền để cho con đi học ở các lớp kĩ năng tìm hiểu về lịch sử nước nhà. Cụ thể:
Nếu phụ huynh cho đi học ở các lớp giáo dục kĩ năng sống ở các trung tâm thì 1 năm phải mất khoảng 1.200.000 đ
Vì vậy: Khi áp dụng biện pháp trên thì nhà trường, GV và phụ huynh sẽ tiết kiệm được: 1.050.000 + 1.200.000 = 2.250.000đ
Trang cuối
8.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp theo ý kiến của tổ chức, cá nhân.
Khi áp dụng giải pháp này trong các giờ học Lịch sử, các em học sinh rất hào hứng và hăng hái tham gia vào tiết học. Giờ đây, việc dạy học lịch sử không còn là việc truyền đạt một cách thụ động mà nó đã trở thành một giờ học đầy hứng thú mà học sinh là người giũ vai trò tích cực, chủ động tìm hiểu kiến thức. Chất lượng môn Lịch sử cũng nâng lên rõ rệt.
Trang cuối
9. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng giải pháp lần đầu (nếu có):
SSố TT
Tên tổ chức/cá nhân
Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng giải pháp
11
Lớp 4D
Trường TH&THCS Tân Phong
Môn Lịch sử

Tân Phong ngày3 tháng12năm2020
Hiệu trưởng
(Ký tên, đóng dấu)
Nguyễn Thị Thuỷ
Tân Phong ngày3 tháng12năm2020
Tổ trưởng chuyên môn
(Ký tên, đóng dấu)
Trần Thị Thủy
Tân Phong ngày3 tháng12năm2020
Tác giả giải pháp
(Ký, ghi rõ họ tên)
Đỗ Thị Hương Thơm

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc.docx