Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong dạy học giúp tạo hứng thú học tập môn Lịch sử cho học sinh ở trường THCS
- Lí do chọn đề tài
PHẦN MỞ ĐẦU
Những năm gần đây việc học sinh ở các trường THCS, THPT không hứng thú, không thích học môn Lịch sử đã trở thành một chủ đề nóng trên các phương tiện truyền thông. Nếu hỏi tại sao thì không chỉ tôi – một giáo viên dạy học môn Lịch sử mà bất cứ ai cũng có thể đưa ra được một vài lí do: môn lịch sử quá nhiều sự kiện, các mốc thời gian, khô khan, khó nhớ; hay các thầy cô giáo giảng dạy chưa thực sự thu hút được các em. Thậm chí có những em học sinh còn đặt ra câu hỏi “Học lịch sử để làm gì?”.
Để trả lời cho câu hỏi đó, sách giáo khoa Lịch sử 6 đã trình bày rất rõ trong bài mở đầu: “Con người, cây cỏ, mọi vật xung quanh đều sinh ra, lớn lên và biến đổi. Xã hội loài người cũng vậy... Mỗi con người, mỗi làng xóm, mỗi dãy phố..., cũng như mỗi dân tộc đều trải qua những biến đổi theo thời gian mà chủ yếu do con người tạo nên... Học lịch sử để hiểu được cội nguồn của tổ tiên, ông cha, làng xóm, cội nguồn của dân tộc mình; biết được tổ tiên, ông cha đã sống và lao động như thế nào để tạo nên đất nước ngày nay, từ đó biết quý trọng những gì mình đang có; biết ơn những người đã làm ra nó, cũng như biết mình phải làm gì cho đất nước. Học lịch sử còn để biết những gì mà loài người làm nên trong quá khứ để xây dựng được xã hội văn minh ngày nay”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong dạy học giúp tạo hứng thú học tập môn Lịch sử cho học sinh ở trường THCS

ưa các tác phẩm thơ, văn, âm nhạc gắn với các sự kiện, giai đoạn lịch sử của đất nước Trong nền văn học và âm nhạc Việt Nam có rất nhiều các tác phẩm ra đời gắn liền với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc. Mỗi tác phẩm ấy là tiếng nói của người lính, người chiến sĩ cách mạng. Thông qua những vần thơ và lời ca tiếng hát để nói lên tiếng lòng của những người thanh niên yêu nước - và đó cũng chính là bức tranh về một thời kì lịch sử của dân tộc. Việc đưa các vần thơ, lời hát gắn với nội dung của bài sẽ làm cho giờ học lịch sử sẽ trở nên vui vẻ, nhẹ nhàng, không còn khô khan và nhám chán; học sinh cảm thấy thích thú và hào hứng hơn. Các em được nhìn lịch sử qua văn học và âm nhạc; cũng như cảm nhận thơ văn qua bức tranh quá khứ. Ví dụ 1: Khi dạy bài 18, tiết 22 – Lịch sử 9 “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời”. Sau khi cho học sinh tìm hiểu về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2//1930, giáo viên trình bày: “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một thời kì mới của cách mạng Việt Nam - từ đây cách mạng Việt Nam có Đảng lãnh đạo, chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo. Để được trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản, được sống và chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc là niềm khát khao cháy bỏng của những người Việt Nam yêu nước khi ấy. Trong hoàn cảnh đó, khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng vào năm 1938, Tố Hữu đã viết bài thơ “Từ ấy” để thể hiện niềm hân hoan, vui sướng của nhà thơ: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim... Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ... Bài thơ thể hiện sự giác ngộ lí tưởng cách mạng của người thanh niên trẻ yêu nước. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản, chân lí cách mạng như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng lên tâm hồn nhà thơ. Qua đó học sinh hiểu được ý nghĩa của việc thành lập Đảng năm 1930 đã đưa một nguồn ánh sáng mới chỉ lối cho con đường cách mạng Việt Nam. Đây là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở Việt Nam; là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là sự chuẩn bị đầu tiên cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của cách mạng Việt Nam.” Như vậy, học sinh được học lịch sử qua văn học, khiến các em thích thú lắng nghe và tiếp thu kiến thức; khơi gợi ở các em sự tìm tòi, liên hệ giữa văn học và lịch sử. Lúc này, việc tìm hiểu về lịch sử có thể trở thành niềm yêu thích của học sinh, các em thấy được sợi dây liên kết của các tác phẩm văn học với hoàn cảnh lịch sử đất nước. Ví dụ 2: Khi dạy bài 25, tiết 33 – Lịch sử 9 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950)”, giáo viên có thể liên hệ đến bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. “Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947, hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào; có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt- Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Bài thơ ra đời năm 1948 khi Quang Dũng vừa rời đơn vị chưa lâu, giáo viên trích dẫn một số khổ thơ: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ về đồng đội, về chiến trường xưa. Đó cũng là bức tranh về một thời kì chiến đấu gian khổ, khắc nghiệt của những người lính trên chiến trường Tây Bắc trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược”. Như vậy, qua những khổ thơ được trích dẫn học sinh hình dung ra được cuộc chiến đấu ác liệt và gian khổ của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Mặc dù cuộc chiến đấu ấy thật dữ dội và chứa đựng nhiều nỗi đau kìm nén nhưng quân dân ta vẫn làm nên chiến thắng, từng bước làm thất bại âm mưu xâm lược của Pháp. Ví dụ 3: Khi dạy bài 29, tiết 42 – Lịch sử 9: “Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước”, giáo viên liên hệ đến bài hát “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”. “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” là tên một bài thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật được sáng tác vào năm 1969, sau đó được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc. Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh nhân dân hai miền Nam, Bắc đang chiến đấu chống Mĩ cứu nước. Miền Nam trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương. Giáo viên có thể chia học sinh trong lớp làm hai nhóm hát, mỗi nhóm hát một đoạn nối tiếp nhau: “Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây Trường Sơn Tây anh đi thương em Bên ấy mưa nhiều con đường gánh gạo Muỗi bay rừng già cho dài tay áo Hết rau rồi em có lấy măng không Còn em thương anh bên Tây mùa đông Nước khe cạn bướm bay lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ Chắc em lo đường chắn bom thù Anh lên xe trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ Em xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư Từ nơi em đưa sang bên nơi anh những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến Như tình yêu nối lời vô tận là Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn”. Với việc sử dụng bài hát trong dạy học lịch sử sẽ thay đổi bầu không khí lớp học; làm cho giờ học trở nên sôi nổi, học sinh thoải mái hơn, thích thú với việc học hơn. Văn học và lịch sử có một sợi dây liên kết mật thiết với nhau. Ở mỗi một thời kì, đặc điểm thơ văn lại mang đậm dấu ấn của lịch sử đất nước. Khi dạy về lịch sử dân tộc, qua các giai đoạn, giáo viên lại đọc một bài thơ, một lời bài hát gắn liền với mốc thời gian đó sẽ giúp giờ học lịch sử không còn khô khan, nhàm chán. Phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh Để có được một giờ học sôi nổi, học sinh hăng hái tham gia xây dựng bài và đạt được kết quả học tập tốt; giáo viên cần phát huy được tính tích cực của học sinh bằng cách giao nhiệm vụ về nhà, đặt ra các câu hỏi để học sinh suy nghĩ, trả lời hay đưa ra các vấn đề thảo luận nhóm... Với những hoạt động như vậy, học sinh sẽ thấy được vai trò, nhiệm vụ của mình đối với mỗi giờ học. Các em nhận thức được rằng, trong mỗi giờ học mình được nêu ý kiến được trao đổi với các bạn và cô giáo về các sự kiện lịch sử, được thể hiện tư duy sáng tạo. Tất cả những điều đó tạo nên niềm hứng khởi cho học sinh khi chuẩn bị bài ở nhà và khi đến lớp. Các em tìm hiểu bài, chuẩn bị bài với niềm yêu thích và say mê. Các em sẽ “chờ” đến mỗi giờ học để được trình bày phần nhiệm vụ được giao của mình, để được thảo luận, được nêu và trả lời các câu hỏi. Ví dụ 1: Khi dạy bài 14, tiết 34 – Lịch sử 8: “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại (Từ giữa thế kỉ XVI đến năm 1917)”, giáo viên chia lớp làm 5 nhóm và giao nhiệm vụ về nhà cho các nhóm. Ở phần I - “Những sự kiện lịch sử chính”, giáo viên yêu cầu cả 5 nhóm về nhà hoàn thành “Bảng thống kê những sự kiện chính của lịch sử thế giới cận đại” vào tờ giấy A1 theo mẫu Sách giáo khoa. Ở phần II - “Những nội dung chủ yếu”, bao gồm 5 nội dung; giáo viên yêu cầu mỗi nhóm trình bày một nội dung : + Nhóm 1: Những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên. + Nhóm 2: Sự xâm lược của thực dân phương Tây với các nước phương Đông. + Nhóm 3: Cuộc đấu tranh của công nhân ở các nước tư bản. + Nhóm 4: Một số thành tựu về văn học, nghệ thuật, khoa học – kĩ thuật. + Nhóm 5: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918). Các nhóm sẽ trình bày phần nội dung của mình dưới dạng hình thức sơ đồ tư duy trên khổ giấy A1, các em vẽ sơ đồ theo ý tưởng và sự sáng tạo của mình. Từng nhóm sẽ cử một thành viên lên bảng trình bày kết quả chuẩn bị của nhóm mình. Sau khi đã giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh, nhiệm vụ của giáo viên trong giờ học là quan sát phần trình bày của các nhóm, cho các em nhận xét, bổ sung và giáo viên sẽ là người nhận xét, đánh giá cuối cùng. Phần I: lần lượt cả 5 nhóm sẽ lên trình bày sự chuẩn bị của nhóm mình. Các nhóm khác quan sát, so sánh, đối chiếu với phần chuẩn bị của nhóm mình và đưa ra nhận xét, bổ sung. Phần II: lần lượt từng nhóm lên bảng trình bày phần chuẩn bị của mình. Các nhóm khác quan sát, đưa ra nhận xét về cả hình thức thể hiện và nội dung. Hình thức trình bày sơ đồ tư duy của nhóm có hợp lý và thể hiện được tính sáng tạo không; nội dung có đầy đủ, ngắn gọn không. Từ đó các nhóm có thể đặt câu hỏi phản biện cho nhau và trả lời. Giáo viên quan sát quá trình hoạt động của học sinh, đưa ra nhận xét cuối cùng và cho điểm từng nhóm. Như vậy, với việc tự chuẩn bị bài và chủ động trình bày kiến thức, nội dung của bài ôn tập sẽ giúp học sinh tự tổng hợp và ghi nhớ được khối lượng kiến thức đã được học. Qua phần các em vẽ sơ đồ tư duy sẽ kích thích trí sáng tạo, sự say mê trong học tập của học sinh. Việc trao đổi, phản biện giữa các nhóm sẽ kích thích tinh thần tích cực, chủ động của học sinh. Qua tất cả các hoạt động trên sẽ tạo nên một giờ học sôi nổi, học sinh trở thành trung tâm của hoạt động học. Với việc áp dụng biện pháp này trong dạy học lịch sử, tôi nhận thấy rằng các em sẽ hào hứng hơn rất nhiều với mỗi giờ học, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy. Giáo viên tích cực khen ngợi, động viên học sinh và cho điểm thưởng Trong mỗi giờ học, việc được thầy cô khen ngợi, cho điểm thưởng là một động lực rất lớn để các em học sinh cố gắng trong học tập. Qua một thời gian giảng dạy ở trường THCS Phú Sơn, tôi nhận thấy ở lứa tuổi này học sinh rất thích được động viên, khen ngợi; được thầy cô và bạn bè ghi nhận sự cố gắng, nỗ lực của bản thân. Với những tính chất đặc thù riêng của bộ môn Lịch sử, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nhận định “Không có học sinh yếu kém môn lịch sử”. Bởi vậy, người giáo viên cần cố gắng để học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học. Một trong số đó chính là kịp thời động viên, khen thưởng và cho điểm học sinh khi các em có câu trả lời đúng hay tích cực xây dựng bài. Ví dụ: Với những học sinh tích cực trong các giờ học, khi kiểm tra lấy điểm miệng giáo viên có thể cộng thêm điểm thưởng để động viên các em. Hoặc ngay trong giờ học, với học sinh tích cực xây dựng bài, trả lời được câu hỏi khó, giáo viên có thể cho điểm ngay các em - “Câu trả lời của bạn rất đúng, trong giờ học bạn cũng rất chú ý lắng nghe và hăng hái phát biểu, cô cho bạn 10 điểm.” Với việc cho điểm như vậy, học sinh sẽ tích cực hơn rất nhiều. Các em sẽ lấy đó làm động lực để tập trung chú ý vào bài học, suy nghĩa và tư duy về những câu hỏi, những vấn đề mà giáo viên đưa ra với một tinh thần hăng hái và say mê. Cùng với việc cho điểm, giáo viên thường xuyên khen ngợi và động viên các em ngay cả khi học sinh có câu trả lời chưa chính xác. Đó là sự ghi nhận tinh thần học tập và sự cố gắng của học sinh. Ví dụ: Khi đưa ra một câu hỏi, học sinh xung phong trả lời nhưng câu trả lời chưa đúng. Giáo viên có thể động viên: “Cô cảm ơn em. Câu trả lời vừa rồi của em chưa chính xác nhưng cô thấy em đã có sự suy nghĩ và mạnh dạn trả lời. Ý thức xây dựng bài của bạn là rất đáng được học tập. Cô mong cả lớp mình bạn nào cũng như vậy để giờ học của chúng ta trở nên sôi nổi và đạt kết quả cao nhất.” Giáo viên động viên như vậy, học sinh sẽ cảm thấy sự cố gắng của mình được ghi nhận, không làm cho các em cảm thấy xấu hổ vì đã trả lời sai. Đồng thời cũng khuyến khích cả lớp mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài. Như vậy, để tạo thêm động lực, khiến cho học sinh thích thú và thực sự cố gắng trong mỗi giờ học lịch sử; giáo viên cần có sự động viên, khích lệ bằng lời nói, cử chỉ và hành động cụ thể. Học sinh sẽ không cảm thấy nặng nề, lo sợ mỗi khi giáo viên ra câu hỏi, ngược lại các em sẽ hào hứng và tích cực tìm hiểu bài học. Từ đó, tạo được hứng thú học tập môn Lịch sử ở các em. Kết quả thực tiễn Qua thực tiễn giảng dạy tại trường THCS Phú Sơn, tôi đã áp dụng các biện pháp nêu trên để tạo hứng thú học tập môn Lịch sử cho học sinh. Kết quả thu được cho thấy việc áp dụng các phương pháp đó thực sự đã đem lại hiệu quả. Cụ thể về kết quả học tập môn Lịch sử học kì I năm học 2018 – 2019 ở các lớp 9A, 9B, 8A, 8B như sau: Lớp Sĩ số Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại yếu Loại kém SL % SL % SL % SL % SL % 9A 34 23 67.6 9 26.5 2 5.9 0 0 0 0 9B 35 17 48.6 14 40 4 11.4 0 0 0 0 8A 29 27 93 2 7 0 0 0 0 0 0 8B 29 21 72.4 7 24.1 1 3.5 0 0 0 0 KẾT LUẬN Để tạo hứng thú học tập môn lịch sử cho học sinh ở trường THCS, giáo viên cần áp dụng một số phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng lớp học. Các biện pháp phải tạo được niềm yêu thích của học sinh đối với môn học. Với các biện pháp được nêu trong đề tài đã làm cho giờ học lịch sử không còn khô khan, nhàm chán; ngoài kiến thức lịch sử các em còn được nghe các câu chuyện, giai thoại lịch sử; những vấn đề mang tính thời sự; được đọc thơ, nghe hát, giúp học sinh yêu thích môn học hơn, từ đó nâng cao kết quả học tập của các em. Các biện pháp đó còn phát huy một số năng lực học tập của học sinh như năng lực hoạt động nhóm, năng lực sáng tạo; đồng thời cũng khuyến khích các em tích cực xây dựng bài, mạnh dạn phát biểu ý kiến trong mỗi giờ học. Việc áp dụng các biện pháp này trong dạy học lịch sử ở trường THCS là hết sức cần thiết. Để đạt được hiệu quả cao nhất, người giáo viên cần sử dụng các biện pháp một cách linh hoạt, chủ động và sáng tạo; phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tác giả: Đỗ Phương Thảo TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách giáo khoa Lịch sử 8, 9 – NXB Giáo dục Việt Nam. Sách giáo viên Lịch sử 8, 9 - NXB Giáo dục Việt Nam. Sách Phương pháp học tập và nghiên cứu lịch sử - NXB Giáo dục Việt Nam. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lí do chọn đề tài 1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 Đối tượng nghiên cứu 2 Phạm vi nghiên cứu 2 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2 Mục đích nghiên cứu 2 Nhiệm vụ nghiên cứu 2 Phương pháp nghiên cứu 2 PHẦN NỘI DUNG 3 Cơ sở lí luận 3 Cơ sở thực tiễn 3 2 1. Thực trạng việc giảng dạy và học tập môn lịch sử ở trường THCS Phú Sơn 3 Thuận lợi 4 Khó khăn 4 Biện pháp nâng cao chất lượng và kết quả học tập của bộ môn Lịch sử 4 Một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn lịch sử cho học sinh 4 Lồng ghép các câu chuyện lịch sử gắn với nội dung bài học. 4 Liên hệ các vấn đề thời sự hiện nay có liên quan đến nội dung bài học 6 Kết hợp đưa các tác phẩm thơ, văn, âm nhạc gắn với các sự kiện, giai đoạn lịch sử của đất nước 8 Phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh 12 Giáo viên tích cực khen ngợi, động viên học sinh và cho điểm thưởng 13 Kết quả thực tiễn 15 KẾT LUẬN 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_trong_day_hoc_giup_ta.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong dạy học giúp tạo hứng thú học tập môn Lịch sử cho học s.pdf