Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo Mô hình VNEN
Như chúng ta đã biết, nội dung của môn Lịch sử lớp 4 cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức ban đầu về các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng lịch sử của Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. Từ đó hình thành và rèn luyện ở học sinh các kĩ năng quan sát, mô tả, phân tích, so sánh đánh giá mối quan hệ giữa các sự kiện trong xã hội. Giúp học sinh vận dụng những tri thức đã học vào nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn cuộc sống. Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về những truyền thống quý báu của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Chính vì lẽ đó mà môn Lịch sử ngày càng được chú trọng trong nội dung chương trình giáo dục lớp 4. Để nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học. Từ năm học 2012-2013 trường Tiểu học Thạch Sơn đã áp dụng Mô hình trường học mới (VNEN) vào việc dạy học đối với các môn học và Hoạt động giáo dục lớp 2 và lớp 3. Năm học 2013-2014 áp dụng với lớp 4 và phân môn Lịch sử cũng được áp dụng phương pháp dạy học này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo Mô hình VNEN

gày càng tiến bộ. Như vậy, việc áp dụng đổi mới đánh giá thường xuyên trong phân môn Lịch sử giúp giáo viên đánh giá mức độ tiếp thu kiến thức của từng học sinh, có sự hỗ trợ kịp thời khi học sinh gặp vướng mắc và điều chỉnh việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh sao cho phù hợp với từng nội dung bài học. Về đánh giá định kì, đối với phân môn Lịch sử được đánh giá vào cuối kì 1 và cuối năm học thông qua bài kiểm tra định kì. Để đánh giá chính xác kết quả học tập của học sinh, giáo viên cần xây dựng đề kiểm tra hợp lí theo các mức độ. Nội dung của đề kiểm tra cần thể hiện được đầy đủ mạch kiến thức học sinh đã học trong một học kì hay trong cả năm học. Giáo viên có thể sử dụng kết quả đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì để khen thưởng học sinh đối với phân môn Lịch sử nhằm khích lệ, động viên các em yêu thích học Lịch sử. Ví dụ về danh hiệu khen thưởng cuối năm: “Em hoàn thành xuất sắc nội dung học tập phân môn Lịch sử.” 7. Ứng dụng Công nghệ thông tin vào trong dạy học phân môn Lịch sử. Chúng ta cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học đối với phân môn Lịch sử, bởi lẽ môn Lịch sử là bộ môn có kiến thức thuộc về quá khứ và công nghệ thông tin (giáo án điện tử, video, sơ đồ) sẽ giúp cho giáo viên tái hiện lại quá khứ thông qua các hình ảnh, video, hay các sơ đồ chiến thuật của các trận đánh. Chính từ những trực quan sinh động đó sẽ tạo ra hứng thú cho học sinh và giúp các em có được cái nhìn thật đối với lịch sử. Với phân môn Lịch sử lớp 4, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tiết học sẽ giúp cho học sinh hứng thú hơn trong học tập. Học sinh được xem những tranh, ảnh, những thước phim minh họa cho bài học.Việc sử dụng lược đồ động để mô tả diễn biến của các trận đánh làm cho việc ghi nhớ kiến thức lịch sử của học sinh trở nên dễ dàng hơn. Để xây dựng được bài giảng điện tử phù hợp với phương pháp dạy học theo Mô hình VNEN, trước hết giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài học lịch sử trong sách Hướng dẫn học. Bởi hoạt động học tập chủ đạo trong một tiết học theo mô hình VNEN là các hoạt động nhóm, căp đôi, cá nhân, hoạt động cả lớp là rất ít. Học sinh chủ động làm việc theo tài liệu Hướng dẫn học. Vì thế, khi thiết kế các bài giảng điện tử giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội dung bài học và các hoạt động của học sinh. Giáo viên không nhất thiết phải thiết kế cả bài giảng điện tử cho toàn bộ tiết học mà có thể thiết kế một hoạt động nào đó trong bài. VD: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước. Hoạt động 3 (phần Hoạt động cơ bản): Tìm hiểu về đời sống người dân dưới thời Hùng Vương- An Dương Vương. Với hoạt động này ta có thể sử dụng máy chiếu cho học sinh xem hình ảnh trống đồng, các hình vẽ trên trống đồng, hình ảnh về các hiện vật dưới thời Hùng Vương như: lưỡi cày đồng, muôi bằng đồng, vòng trang sức bằng đồng VD: Bài 7: Nước Đại Việt thời Lý Giáo viên có thể thiết kế giáo án điện tử (trình chiếu các hình ảnh liên quan) Hoạt động 6 (phần Hoạt động cơ bản): Khám phá vẻ đẹp của ba công trình : Chùa Một Cột (Hà Nội), Chùa Keo (Thái Bình), tượng Phật A-di-đà (chùa Phật Tích, Bắc Ninh) Yêu cầu của hoạt động là: Nghe thầy/cô giáo miêu tả để thấy được: - Vẻ độc đáo của chùa Một Cột (Hà Nội). - Vẻ đẹp của Chùa Keo ( Thái Bình). - Vẻ thanh thoát, điềm tĩnh, thanh thản của tượng Phật A-di-đà (chùa Phật Tích, Bắc Ninh) Ở hoạt động này, giáo viên vừa cho học sinh xem các hình ảnh về Chùa Một Cột , Chùa Keo, tượng Phật A-di-đà trên màn hình máy chiếu vừa kết hợp với lời miêu tả của giáo viên. Sau khi học sinh xem và nghe giáo viên giới thiệu, giáo viên yêu cầu học sinh miêu tả lại vẻ đẹp của các di tích ấy. VD: Bài 11: Buổi đầu thời Nguyễn Hoạt động 3 (phần Hoạt động cơ bản): Khám phá quần thể cố đô Huế. Với hoạt động này, ngoài sử dụng trình chiếu các hình ảnh về kinh thành Huế, giáo viên có thể sử dụng một đoạn Video nói về vẻ đẹp cổ kính của cố đô Huế qua các công trình kiến trúc được xây dựng từ thời nhà Nguyễn. Như vậy, qua việc được nghe, được nhìn về nội dung bài học sẽ làm học sinh hứng thú và việc tiếp thu bài sẽ nhanh hơn. 8. Tích hợp dạy học Lịch sử trong các môn học và Hoạt động giáo dục. Trong quá trình dạy học Lịch sử, giáo viên cần khai thác vốn hiểu biết của các em thông qua việc các em đã đọc truyện, học Tiếng việt, học Toán, các hoạt động giáo dục nói về các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử. VD: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước. Khi dạy bài này, giáo viên có thể yêu cầu học sinh kể lại các câu chuyện được học qua môn Tiếng việt ở lớp 2, lớp 3 hoặc đã được đọc, được nghe qua sách báo nói về thời Hùng Vương, An Dương Vương. Học sinh sẽ kể được câu chuyện “Sơn Tinh Thủy Tinh”, sự tích “ Bánh chưng bánh dày”, truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy” Trong nội dung của môn Toán lớp 4 có nhắc đến một số mốc thời gian lịch sử. Bài học về giây, thế kỉ có nhắc đến Bà Triệu (Triệu Thị Trinh) sinh năm 226, bà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Đông Ngô năm 248, nhắc đến năm sinh của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long năm 1010Với bài tập xác định thế kỉ, năm xảy ra các sự kiện lịch sử giúp chúng ta củng cố và khắc sâu kiến thức lịch sử cho các em. VD: Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh dành độc lập. Phần C Hoạt động ứng dụng có yêu cầu: Em hãy vẽ một bức tranh mô tả cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. VD: Bài 3: Buổi đầu độc lập. Trên lược đồ, cùng nhau vẽ mũi tên thể hiện diễn biến cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược dưới sự lãnh đạo của Lê Đại Hành. Để làm tốt hai hoạt động trên, học sinh sẽ vận dụng kiến thức của Hoạt động giáo dục Mĩ thuật để hoàn thành. 9. Lồng ghép dạy học lịch sử qua các hoạt động ngoại khóa. Để môn lịch sử thực sự là môn học yêu thích đối với các em, giúp các em ghi nhớ và mở rộng kiến thức lịch sử, ngoài việc học lịch sử trên lớp, chúng ta cần tổ chức cho học sinh được trải nghiệm qua các hoạt động ngoại khóa. VD: Tổ chức cho học sinh tham gia các cuộc giao lưu “Tìm hiểu về lịch sử”, “Đố vui về kiến thức lịch sử” hay tham dự nghe “Cựu chiến binh kể chuyện” nhân ngày 22/22. Qua các hoạt động đó, học sinh ghi nhớ được các kiến thức lịch sử đã học, hiểu hơn về truyền thống quý báu của ông cha ta qua các cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Qua các đợt hội diễn văn nghệ của trường, chúng ta có thể cho học sinh đóng vai các tiểu phẩm lịch sử để biểu diễn trước toàn trường. VD: Tổ chức cho học sinh đóng vai dựa theo kịch bản: “Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế” (Bài 10: Phong trào Tây Sơn và Vương triều Tây Sơn.) Mặt khác, giáo viên cần phối hợp với nhà trường tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa như: Tham quan các Di tích Lịch sử, chăm sóc khu tưởng niệm liệt sĩ tại địa phương. VD: Sau khi học xong bài 6: Nhà Hồ.( Từ năm 1400 đến năm 1407). Tôi cùng với nhà trường và một số phụ huynh đã tổ chức cho học sinh tham quan Di tích lịch sử Thành Tây Đô (Vĩnh Lộc). Sau khi được tham quan, các em học sinh đã hiểu hơn về kiến thức lịch sử, thấy được sự tài giỏi của cha ông ta khi xây dựng được công trình với kiến trúc độc đáo như thế. Như vậy, việc lồng ghép dạy học lịch sử qua các hoạt động ngoại khóa đã góp phần giáo dục các em lòng biết ơn, niềm tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm đối với việc giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc. Trong hoạt động của Đội Thiếu niên tiền phong trong nhà trường có lồng ghép chương trình giáo dục lịch sử cho học sinh. Hằng năm, Liên đội trường Tiểu học Thạch Sơn đều tổ chức cấp chuyên hiệu “Nhà sử học nhỏ tuổi” cho các em hoàn thành tốt bài tìm hiểu lịch sử nhằm khích lệ học sinh yêu thích tìm hiểu về lịch sử dân tộc. 10. Đưa nội dung dạy học Lịch sử vào các buổi Sinh hoạt chuyên môn. Với trường tham gia Mô hình VNEN thì chúng tôi tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo tổ chuyên môn 3lần/tháng. Tôi trao đổi với đồng nghiệp tăng cường xây dựng các tiết dạy Lịch sử để thao giảng nhằm chia sẻ những kinh nghiệm trong dạy học phân môn Lịch sử. Bởi vì lâu nay, giáo viên cho rằng môn Lịch sử là môn học khó, chọn tiết Lịch sử để thao giảng sẽ ít thành công. Tuy nhiên qua những lần thao giảng ở trường, ở cụm trường, tôi thấy việc dạy học Lịch sử lớp 4 đối với mô hình VNEN trở nên rất nhẹ nhàng. Để tiết thao giảng đạt kết quả tốt, trước tiết dạy, tổ chuyên môn đã chia sẻ về nội dung bài dạy: Có cần điều chỉnh không? điều chỉnh nội dung gì cho phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp? Cách thức tổ chức các hoạt động như thế nào? Cần chuẩn bị đồ dùng dạy học gì? Từ đó đưa ra các phương pháp và hình thức dạy học hợp lí cho tiết dạy. Sau tiết dạy, tổ chuyên môn chia sẻ về hiệu quả của tiết dạy, những ưu điểm và tồn tại về hoạt động của Hội đồng tự quản học sinh, của giáo viên trên lớp để đúc rút kinh nghiệm. Như vậy, qua việc đưa tiết dạy Lịch sử vào hoạt động sinh hoạt chuyên môn, giáo viên sẽ học hỏi được nhiều kinh nhiệm trong giảng dạy, khích lệ giáo viên yêu thích dạy Lịch sử từ đó nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử trong nhà trường. Mặt khác, theo thông tư 30, nội dung bài kiểm tra định kì phân môn Lịch sử được tổ chuyên môn nhà trường xây dựng. Phân môn Lịch sử được đánh giá định kì bằng bài kiểm tra ở cuối kì 1 và cuối năm học. Vì thế, qua buổi sinh hoạt chuyên môn chúng tôi cùng nhau nghiên cứu, thảo luận và xây dựng nội dung đề kiểm tra định kì sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh của toàn khối. 11. Thành lập Câu lạc bộ “ Em yêu lịch sử” Việc thành lập Câu lạc bộ “ Em yêu lịch sử” trong nhà trường tạo điều kiện cho những em học sinh có niềm say mê, yêu thích môn Lịch sử được tham gia tìm hiểu, nâng cao kiến thức lịch sử. Giúp các em có cơ hội thể hiện những hiểu biết về kiến thức lịch sử, góp phần thúc đẩy việc dạy học lịch sử trong nhà trường. Để Câu lạc bộ hoạt động có hiệu quả, giáo viên cần xây dựng nội dung chương trình hoạt động phù hợp. Ngoài những sự kiện, nhân vật lịch sử các em đã học ở lớp 4, chúng ta cần mở rộng tầm hiểu biết của các em về sự kiện, nhân vật lịch sử khác làm vốn hiểu biết của học sinh về lịch sử dân tộc ngày càng được nâng cao. Từ đó các em sẽ hứng thú với môn học, phát huy tính tích cực chủ động của các em trong học tập. VD: Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh dành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm 938) Sau bài học này, giáo viên có thể bổ sung kiến thức cho các em tham gia Câu lạc bộ “Em yêu lịch sử” về các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống lại ách đô hộ của các triều đại phong kiến Phương Bắc (từ năm 40 đến năm 938) Thời gian Các cuộc khởi nghĩa Năm 40 Khởi nghĩa Hai Bà Trưng Năm 248 Khởi nghĩa Bà Triệu Năm 542 Khởi nghĩa Lý Bí Năm 550 Khởi nghĩa Triệu Quang Phục Năm 722 Khởi nghĩa Mai Thúc Loan Năm 766 Khởi nghĩa Phùng Hưng Năm 905 Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ Năm 931 Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ Năm 938 Chiến thắng Bạch Đằng IV. Kết quả thực hiện. Trong quá trình dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình VNEN, tôi đã vận dụng các giải pháp và biện pháp nên trên. Kết quả đạt được sau ba năm thực hiện dạy học phân môn lịch sử lớp 4 đó là: Về phía nhà trường: Chất lượng dạy học phân môn Lịch sử trong nhà trường đã được nâng lên một cách rõ rệt. Cuối năm học 2015-2016, 100% học sinh hoàn thành nội dung môn học. Về phía giáo viên: Giáo viên đã thực sự đổi mới phương pháp và hình thức dạy học Lịch sử đúng với mô hình VNEN. Giáo viên nắm vững được các kiến thức lịch sử, cảm thấy tự tin khi lên lớp, yêu thích môn Lịch sử hơn. Về phía học sinh: Tôi nhận thấy học sinh thành thục các bước học tập theo mô hình VNEN. Về kĩ năng giao tiếp, xử lí tình huống, kĩ năng giải quyết vấn đề của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt, học sinh tích cực chủ động trong các hoạt động nhóm, chủ động chiếm lĩnh kiến thức lịch sử, nhớ được các nhân vật và sự kiện lịch sử tiêu biểu trong chương trình, biết liên hệ các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Các em có ý thức trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc. Các em không còn sợ môn học Lịch sử nữa mà luôn mong chờ đến tiết lịch sử để được chơi trò chơi, được trải nghiệm khám phá các kiến thức lịch sử. Về phía cộng đồng: Được tham gia vào quá trình học tập của con em mình, đó là niềm vui của mỗi bậc phụ huynh. Thấy được sự tiến bộ của con em mình, phụ huynh ngày càng tin tưởng vào Mô hình trường học mới mà nhà trường đang áp dụng. V. Kết luận, kiến nghị. 1. Kết luận. Để việc dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình VNEN đi vào thực tiễn có hiệu quả, tôi đã đưa ra một số giải pháp thực hiện. Tôi nhận thấy rằng, muốn dạy học tốt môn Lịch sử, trước hết giáo viên phải yêu thích môn Lịch sử, nắm vững kiến thức nội dung chương trình Lịch sử, biết đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo mô hình VNEN. Giáo viên cần dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu bài dạy trước khi lên lớp, làm đồ dùng dạy học. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần chủ động linh hoạt các hình thức tổ chức, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn, tổ chức dạy học làm sao để khơi gợi cho các em niềm say mê, sự tự tin về môn học Lịch sử. Cần phát huy hiệu quả vai trò của HĐTQ để học sinh luôn tự giác chủ động trong học tập. Mặt khác, giáo viên cần phối hợp tốt với cộng đồng, với phụ huynh học sinh trong việc giáo dục con em mình. 2. Kiến nghị. Để việc dạy và học phân môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình VNEN đạt hiệu quả, ngoài các đồ dùng dạy học được cấp phát như: Tranh ảnh, lược đồ, bản đồ nhà trường cần bổ sung thêm một số băng đĩa tư liệu và thiết bị dạy học phục vụ cho các bài học Lịch sử. Hằng năm cần tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động giáo dục theo chủ đề lịch sử, tổ chức các buổi học ngoại khóa như tham quan các Di tích Lịch sử và cảnh đẹp của địa phương. Nhà trường phối hợp với các trường trong huyện tham gia thao giảng dạy học theo mô hình VNEN, tổ chức các chuyên đề về dạy học Lịch sử nhằm nâng cao năng lực dạy học cho giáo viên. Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình VNEN mà trong suốt thời gian qua bản thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy. Bước đầu, chất lượng dạy học phân môn Lịch sử đã được nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự phấn khởi, tự tin khi học Lịch sử. Đối với tôi, cách dạy trên đã góp phần không nhỏ vào việc dạy học thành công mô hình VNEN, giúp tôi có thêm niềm tin vào công việc giảng dạy của mình. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sáng kiến này sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu của cấp trên và đồng nghiệp để sáng kiến này được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong việc dạy và học phân môn Lịch sử lớp 4 trong mô hình VNEN. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thạch Thành, ngày 02 tháng 4 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người thực hiện Lê Thị Thúy Tài liệu tham khảo. Sách Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4. (thuộc dự án Mô hình trường học mới). Tài liệu hướng dẫn giáo viên môn Lịch sử và Địa lí lớp 4. (thuộc dự án Mô hình trường học mới)
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_lu.doc