Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học môn học Lịch sử ở trường THCS Trần Phú

Lịch sử là một trong những môn khoa học rất quan trọng, vì môn Lịch sử giúp các em biêt được quá trình phát triển của lịch sử loài người, nhất là biết được quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua bốn nghìn năm lịch sử. Đó là một quá trình lao động cần cù, sáng tạo và chiến đấu lâu dài, gian khổ, hi sinh của các thế hệ người Việt Nam. Qua việc học lịch sử, giúp các em hiểu được giá trị của cuộc sống và bồi dưỡng cho các em lòng tự hào dân tộc, sự biết ơn những người có công với nước, từ đó các em ý thức được trách nhiệm của mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tôi thấy học sinh trường Trần Phú quan tâm nhiều đến các môn như Toán, Lý, Hóa và Anh văn, còn môn Lịch sử và các môn khoa học xã hội nói chung, hầu như chỉ học để đối phó. Tình hình đó đã dẫn đến sự hiểu biết lịch sử của các em rất hạn chế, chất lượng bộ môn giảm sút so với nhiều năm trước. Vậy, làm thế nào để cải thiện chất lượng bộ môn! Tôi cho rằng, chỉ có cách duy nhất là giáo viên phải luôn tạo được sự hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ Lịch sử. Trăn trở trước thực trạng đó đã nhiều năm, tôi đã học hỏi và rút ra một số kinh nghiệm về sử dụng phương pháp tạo hứng thú cho học sinh trong môn học Lịch sử, làm cho môn học không trở nên nặng nề, khô khan, nhàm chán, từ đó nâng cao dần chất lượng bộ môn.

doc 17 trang SKKN Lịch Sử 16/07/2025 90
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học môn học Lịch sử ở trường THCS Trần Phú", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học môn học Lịch sử ở trường THCS Trần Phú

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học môn học Lịch sử ở trường THCS Trần Phú
 thơ vào giờ học lịch sử đã tạo được hứng thú cho học sinh. 
 	Ví dụ: Khi dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (Lịch sử 9), sau khi dạy xong, tôi đọc bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, để củng cố nhận thức của học với những câu thơ như sau:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng, đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm
Mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai, ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
 Nhất định mở đường cho xe ta ra chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn, mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...
 (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)
 	Tôi vừa đọc, vừa dừng lại nêu câu hỏi hoặc phân tích một số ý quan trọng. Ví dụ, khi đọc xong câu: "Những đồng chí thân chôn làm giá súng", tôi nêu câu hỏi: " Em có biết, trong chiến dịch Điện Biên Phủ ai là người đã lấy thân mình làm giá súng ?". Khi đọc xong câu "Đầu bịt lỗ châu mai", tôi lại hỏi:" Ai là người đã xông lên bịt lỗ châu mai để chặn đứng hỏa lực địch?" Khi đọc xong câu 
"Những đồng chí chèn lưng cứu pháo. Nát thân, nhắm mắt còn ôm", tôi lại hỏi:" Ai là người chèn lưng cứu pháo ?" ... Các em sẽ khắc sâu được hình ảnh hi sinh dũng cảm của các chiến sĩ và xúc động, tự hào về truyền thống dân tộc. 
 	 Dạy bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (1965 - 1968) (Lịch sử 9), khi nói về đường Trường Sơn - tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, tôi đọc cho học sinh nghe một đoạn thơ sau:
Trường Sơn xẻ dọc, rọc ngang
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng
Trường Sơn vượt núi, băng sông
Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa
Trường Sơn, đông nắng, tây mưa
Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình
 (Nước non ngàn dặm - Tố Hữu)
 	Sau khi đọc xong, tôi nêu câu hỏi: "Qua đoạn thơ trên, em có suy nghĩ gì về tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta ?". Học sinh có thể không hiểu đầy đủ nội dung của đoạn thơ, song giáo viên cần phải bổ sung cho các em. Tuy nhiên, với giọng đọc truyền cảm, có lúc hùng hồn, có lúc thiết tha của giáo viên sẽ khiến các em xúc động trước một con đường huyền thoại. Như vậy, giáo viên đã tạo được hứng thú cho các em trong giờ học lịch sử. Sự tiếp nhận kiến thức như vậy sẽ làm cho các em nhớ lâu hơn, ấn tượng hơn.
 	Để làm được điều này, giáo viên phải biết sưu tầm các bài thơ hay, các câu thơ hay có liên quan đến các sự kiện lịch sử và biết sử dụng một cách hợp lí, có hiệu quả. Khi sử dụng thơ vào dạy học lịch sử cần chú ý, phải chọn lọc những đoạn, những câu phù hợp với bài học, phù hợp với khả năng hiểu biết của các em, không nên đọc hết một bài thơ quá dài vừa làm mất nhiều thời gian của giờ học, vừa làm cho các em cảm thấy nhàm chán. Giáo viên không nên tham lam, sử dụng quá Giáo viên cần chú ý đọc diễn cảm, thể hiện ngữ điệu phù hợp với từng câu thơ. nhiều thơ vào dạy học lịch sử và cũng tránh phân tích quá sâu làm sai mục đích của việc sử dụng kiến thức liên môn. Giáo viên phải rèn luyện cách đọc thơ, nếu đọc không hay cũng không thể tạo hứng thú cho học sinh.
 * Sử dụng yếu tố âm nhạc trong dạy học lịch sử
 	Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết sử dụng thơ ca để truyền đạt thông tin, vì thông tin qua hình thức đó làm cho người nghe, người đọc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. 
Trong thực tế, âm nhạc đã từng làm nên những điều kì diệu, âm nhạc có thể làm thay đổi cảm xúc của con người. Con người thường dùng âm nhạc để ca ngợi cái đẹp và hướng tới cái đẹp, vì vậy đã có rất nhiều ca khúc, ca ngợi các anh hùng dân tộc, ca ngợi những chiến công, ca ngợi tinh thần vượt qua khó khăn gian khổ, sự hi sinh anh dũng của quân và dân ta trong lịch sử chống ngoại xâm. Một bài hát với lời ca rộn ràng, hùng tráng phù hợp với nội dung bài học, được dạo lên trước một giờ học mới sẽ làm vơi đi sự mệt mỏi, tạo sự sảng khoái để bước vào một giờ học hiệu quả hơn, đồng thời còn có tác dụng giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc. Vì vậy, tôi đã sử dụng yếu tố âm nhạc vào dạy học lịch sử. 
Ví dụ, khi dạy bài khi dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc ( Lịch sử 9), sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em nghe một đoạn ngắn bài hát "Giải phóng Điện Biên" (Đỗ Nhuận) rồi giới thiệu bài mới. Bài hát mang âm hưởng làn điệu dân ca Tây Bắc dặt dìu và làn điệu chèo mượt mà của đồng bằng Bắc Bộ, với tiếng kèn thắng trận hùng tráng. Nhịp điệu âm nhạc tropng bài hát là nhịp chân điệu múa xòe hoa của các cô gái Thái, xen lẫn nhịp bước hành quân của các chiến sĩ Điện Biên. Bài hát sẽ tạo một tâm trạng sôi nổi háo hức, để các em đi vào bài học một cách hứng thú hơn.
Khi dạy bài 30 - Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1973 - 1975) ( Lịch sử lớp 9) sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em nghe một đoạn ngắn bài hát "Giải phóng miền Nam" (Lưu Hữu Phước) rồi giới thiệu bài mới. Nội dung bài hát là lời thôi thúc, cổ vũ, hiệu triệu toàn quân, toàn dân ta tiến lên tiêu diệt kẻ thù. Như vậy, ngay từ đầu đã tạo được không khí phấn khởi cho các em. Khi dạy xong bài 30 - Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1973 - 1975) (Lịch sử lớp 9), tôi cho các em nghe bài hát "Như có Bác trong ngày đại thắng" (Phạm Tuyên) hoặc bắt nhịp cho cả lớp cùng hát. Nội dung bài hát thể hiện niềm tự hào, niềm vui chiến thắng nên các em sẽ cảm thấy vui và phấn chấn hơn sau một giờ học. Điều đó sẽ giúp các em hứng thú trong học tập, thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất nước. 
Lưu ý: Khi sử dụng yếu tố âm nhạc vào dạy học lịch sử phải lựa chọn những bài hát phù hợp với nội dung bài học, phải theo quan điểm của Đảng, phù hợp với khả năng cảm thụ âm nhạc của lứa tuổi học sinh, không lạm dụng yếu tố âm nhạc vào dạy học lịch sử. 
 	Một số điều cần lưu ý khi dạy học nói chung và dạy lịch sử nói riêng, đó là:
 	Giáo viên phải diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, cần tránh lối nói mập mờ, khó hiểu, tránh giải thích vấn đề một cách trừu tượng, rắc rối. Sức mạnh của lời nói là ở chỗ ngắn gọn, ít từ mà súc tích. Tuy nhiên, ngắn gọn không có nghĩa là không được nói dài, mà là không nói thừa. Nói như vậy bài trình bày của giáo viên vừa chặt chẽ, dễ hiểu, vừa tiết kiệm được thời gian. Để trình bày ngắn gọn, điều quan trọng đầu tiên là giáo viên không nên bắt đầu bằng những lời lẽ huyên thuyên, lan man, lạc đề, mà phải bám sát vào yêu cầu của bài giảng. Đặc biệt giáo viên nên tránh nói 
dài, nói dai, lặp đi lặp lại những điều đã trình bày. Trình bày ngắn gọn nhưng câu nói phải đủ ý và dễ hiểu, nếu cô đọng quá, vắn tắt quá sẽ làm học sinh khó hiểu.
 	Diễn đạt tốt là phải thu hút người nghe vào bài giảng của mình, khắc sâu vào trí nhớ của họ những vấn đề cần thiết. Cho nên điều quan trọng trong diễn đạt là lời nói phải sinh động, có hình ảnh. Muốn đạt được điều này, giáo viên phải biết sử dụng ngôn ngữ.
 	Ngôn ngữ mà giáo viên sử dụng phải trong sáng, tránh rườm rà, không nên sử dụng các từ theo sở thích như: "tốt", "tuyệt",...mà không phù hợp với bài giảng, các thán từ không cần thiết: "ờ, ờ!"... và quá nhiều liên từ trong bài giảng. Tất cả những từ thừa trong ngôn ngữ sẽ làm cho các em khó tri giác lời giảng, đôi khi khiến các em khó chịu và trở thành trò đùa của các em.
 	Cùng với việc sử dụng tốt ngôn ngữ diễn đạt giáo viên phải chú ý đến âm lượng, khi giảng bài, giáo viên không nên lúng búng trong miệng, không nuốt từ, giọng nói cần vừa đủ để tất cả học sinh trong lớp đều nghe được, không nên nói to quá, cũng không nên nói nhỏ quá. Nói to quá (nhất là giọng the thé) làm cho học sinh bị kích thích, khó chịu . Nếu giáo viên nói nhỏ quá thì học sinh cuối lớp không nghe rõ sinh ra chán nản và làm việc riêng.
 	Để cuốn hút học sinh vào bài giảng, giáo viên còn phải chú ý đến ngữ điệu. Ngữ điệu có tác dụng rất lớn tới chất lượng bài giảng. Lời nói đều đều khi giảng một bài lịch sử sẽ làm cho học sinh dễ buồn ngủ. Đây là một nguyên nhân làm cho bài học trở nên nhạt nhẽo, khô khan, không hấp dẫn. Lời nói của giáo viên trong mỗi bài lịch sử cần thể hiện tình cảm của mình thông qua ngữ điệu diễn đạt thích hợp với nội dung bài . Ngữ điệu phong phú của giáo viên để truyền đạt hết các sắc thái tình cảm thông qua từng nội dung kiến thức có sức hấp dẫn lôi cuốn, khiến cho học sinh say sưa quên thời gian, hết tiết học các em còn cảm thấy luyến tiếc, chứng tỏ các em đang hứng thú học tập.
 	Nhịp độ nói của giáo viên cũng có ý nghĩa quan trọng trong bài giảng. Nhịp độ nói của thầy phải ăn khớp với nhịp độ tư duy của học sinh. Thầy phải thường xuyên theo dõi biểu hiện trên nét mặt của học sinh để biết được các em có theo kịp bài giảng hay không. Khi trình bày những phần khó, giáo viên cần nói với nhịp độ chậm. Đặc biệt khi trình bày một kết luận, định nghĩa, nguyên lí...nhất thiết phải nói chậm. Không phải chỉ nói chậm là quan trọng mà cả việc sắp xếp trọng âm, lên giọng, xuống giọng, dừng lại để nhấn mạnh ý nghĩa của toàn bộ sự khái quát cũng như từng phần riêng rẽ của nó. 
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
 Để thực hiện tốt những phương pháp trên, yêu cầu phải có các điều kiện sau đây:
 Phải có máy vi tính nối mạng Internet và màn hình trình chiếu
 	Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, có kĩ năng diễn đạt lưu loát, ngữ điệu phong phú.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
 	 Trong một bài giảng các phương pháp, phương tiện dạy học thường hỗ trợ cho nhau, có mối quan hệ với nhau. Cụ thể trong đề tài này, công nghệ thông tin đã hỗ trợ hình ảnh trực quan về sự vật, sự kiện lịch sử cho miêu tả, tường thuật nên học sinh dễ hình dung, nhận biết. Ngược lại việc miêu tả, tường thuật của giáo viên sẽ làm rõ bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử qua hình ảnh trực quan mà công nghệ thông tin đem lại.
 	Công nghệ thông tin cũng hỗ trợ cho phương pháp liên môn như: qua mạng Internet có thể tìm kiếm các hình ảnh, tư liệu về thành tựu của các ngành khoa học như khoa học vũ trụ, y học, nông nghiệp, giao thông vận tải và thông tin liên lạc...mà môn Lịch sử đề cập đến.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
 	 Qua việc sử dụng các phương pháp trên ở lớp 9A năm học 2010 - 2011, tôi nhận thấy rất rõ, trong giờ lịch sử những đoạn giáo viên tường thuật diễn biến một chiến dịch hay một trận đánh bằng lược đồ có ứng dụng công nghệ thông tin với kí hiệu, hình ảnh sinh động thì học sinh theo dõi rất chăm chú, việc tạo biểu tượng lịch sử và nắm nắm kiến thức lịch sử dễ dàng hơn. Khi tôi sử dụng thơ vào bài giảng các em đã rất lắng nghe và khi một đoạn nhạc, một ca khúc được cất lên thì tôi thấy các em thật phấn khích. Điều đó, chắc chắn ít nhiều đã tạo được hứng thú và sự thoải mái cho các em trong giờ học lịch sử. Khi các em đã có sự chú ý, hứng thú học tập thì kết quả học tập sẽ được cải thiện. Hơn nữa, sự hiểu biết của các em về lịch sử, về các lĩnh vực khác sẽ đầy đủ hơn và sự phát triển nhân cách của các em vì thế cũng đầy đủ hơn.
II.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
 	Qua khảo nghiệm, tôi thấy có thêm nhiều học sinh lớp 9A yêu thích môn Lịch sử, có hiểu biết nhiều hơn về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới. Từ sự yêu thích môn Lịch sử, các em biết trân trọng những thành quả mà ông cha đã đạt được và tự hào về truyền thống của dân tộc ta. Từ đó các em ý thức được trách nhiệm của mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Kết quả học tập cũng được nâng cao. So sánh chất lượng môn Lịch sử của lớp 9A và 9C năm học 2010 - 2011, có kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại yếu
Loại kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
41
21
51,22
19
46,34
1
2,44
0
0
0
0
9C
38
7
18,42
16
42,11
14
36,84
0
0
0
0

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1 Kết luận
 	Để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập lịch sử, nhằm giúp các em có hiểu biết nhiều hơn về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới, đòi hỏi giáo viên phải nhiệt tình, sáng tạo, có phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh. Việc sử dụng các phương pháp dạy học trên, có tác động rất lớn đến lứa tuổi học sinh phổ thông, các em thấy yêu thích môn Lịch sử hơn, nên chất lượng bộ môn cũng được cải thiện. Tuy nhiên, mỗi phương pháp có những mặt ưu điểm và hạn chế nhất định. Điều quan trọng là người giáo viên phải biết sử dụng các phương pháp dạy học một cách hợp lí, chủ động, sáng tạo thì mới đem lại hiệu quả cao. 
III.2 Kiến nghị
 	Để khẳng định môn Lịch sử rất quan trọng, giúp hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội thì cùng với ý thức trách nhiệm của giáo viên dạy lịch sử, các cơ quan giáo dục cũng cần có những hình thức như thỉnh thoảng đưa môn Lịch sử vào thi tuyển sinh lớp 10, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử để các em có hiểu biết nhiều hơn về lịch sử và yêu thích môn Lịch sử.
 IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO
 - Sách Phương pháp học tập và nghiên cứu lịch sử . Phan Ngọc Liên - Nguyễn Thị Côi - Đặng Văn Hồ. NXB Giáo dục
 - Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III. Đỗ Thanh Bình - Đào Thị Hồng - Phan Ngọc Liên - Nguyễn Xuân Trường. NXB Giáo dục 
V. MỤC LỤC
 I. PHẦN MỞ ĐẦU Trang 
I.1. Lí do chọn đề tài..................................................................................................1
 I.2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài............................................................................2
I.3 Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................2
I.4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu...............................................................................2
I.5 Phương pháp nghiên cứu......................................................................................2
II. PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................3
II.1 Cơ sở lí luận........................................................................................................3
II.2 Thực trạng...........................................................................................................4
II.3 Giải pháp, biện pháp...........................................................................................5
II.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu..15
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.................................................................16
III.1 Kết luận
III.2 Kiến nghị
IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO...............................................................................17
V. MỤC LỤC.........................................................................................................18

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_su_dung_phuong_phap.doc