Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học phân môn Lịch sử lớp Năm

Những thành tựu mới của khoa học và công nghệ cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI đang làm thay đổi hình thức và nội dung các hoạt động kinh tế văn hóa và xã hội của loài người. Một số quốc gia phát triển đã bắt đầu chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh thông tin. Các quốc gia đang phát triển tích cực áp dụng những tiến bộ mới của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin để phát triển và hội nhập.

Đối với Giáo dục và Đào tạo, công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là một phương tiện để tiến tới một “Xã hội học tập”. Mặt khác giáo dục và đào tạo đóng một vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin thông qua việc cung cấp nhân lực cho công nghệ thông tin. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã yêu cầu: “Tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025...

doc 21 trang SKKN Lịch Sử 13/03/2025 20
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học phân môn Lịch sử lớp Năm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học phân môn Lịch sử lớp Năm

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học phân môn Lịch sử lớp Năm
ẽ hứng thú hơn nhiều so với bản đồ tĩnh, tuy nhiên việc thiết kế một lược đồ điện tử là một vấn đề rất khó làm đối với giáo viên. Phương pháp này có thể áp dụng cho rất nhiều bài trong chương trình của phân môn Lịch sử đặc biệt là các bài có diễn biến của phong trào cách mạng, các trận đánh lớn. tôi xin nêu ra một trường hợp ứng dụng cụ thể đó là:
 	Để dạy Bài 15: Chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950, (SGK Lịch sử và Địa lí 5, trang 32), tôi sử dụng lược đồ để mô tả minh hoạ chiến thắng này. Tôi xin giới thiệu cách làm và sử dụng lược đồ trong bài. 
a. Xây dựng: Để xây dựng và sử dụng lược đồ thì cần có một lược đồ trên giấy của phong trào hoặc là lược đồ điện tử có sẵn. Ở đây tôi sử dụng lược đồ trong sgk (trang 34).
 	Bước 1: Trước hết ta dùng một máy quét nối với máy tính để quét lược đồ vào trong máy tính. Sau đó dùng các kỹ thuật vẽ trong Powerpoint để chỉnh sửa lược đồ theo nhu cầu, mục đích sử dụng (có thể phóng to, thu nhỏ hoặc cắt bớt một số phần).
 	Bước 2: Vẽ các ký hiệu trên lược đồ.
- Công việc này nhằm tạo ra các ký hiệu, cho xuất hiện theo ý đồ định sẵn phù hợp với diễn biến của phong trào theo đúng trình tự.
- Để vẽ các ký hiệu này ta vào Powepoint/AutoShaper rồi chọn các ký hiệu phù hợp. Ở đây tôi chèn hình lá cờ đỏ sao vàng để mô tả những cứ điểm quân ta chiếm được, chèn hình mũi tên màu đỏ để mô tả đường, hướng tấn công của quân ta và mũi tên màu đen nét đứt để chỉ đường, hướng hành quân và rút lui của địch.
+ Hình đốm lửa đỏ để biểu thị cứ điểm Đông Khê.
Sau khi đã vẽ xong các ký hiệu theo đúng ý đồ thì ta đặt hiệu ứng xuất hiện theo trình tự diễn biến của phong trào.
- Cách đặt hiệu ứng như sau:
+ Chọn ký hiệu cần đặt hiệu ứng (ví dụ lá cờ đỏ sao vàng).
+ Ta chọn lá cờ đỏ sao vàng sau đó nháy chuột vào Slide show
+ Chọn Custom Animation 
+ Chọn Add Effect/Entrance.
 	Sau đó tuỳ chọn kiểu xuất hiện đối với lá cờ đỏ sao vàng và cứ điểm Đông Khê thì ta nên chọn hiệu ứng nhấp nháy to dần. Các ký hiệu còn lại ta đặt hiệu ứng theo cách tương tự như vậy sao cho các hiệu ứng của các ký hiệu xuất hiện theo đúng trình tự diễn biến của chiến dịch.
b. Sử dụng: Sử dụng lược đồ động để minh họa cho “hoạt động 2: Diễn biến, kết quả của chiến dịch Biên giới thu - đông 1950”, giáo viên tường thuật diễn biến cùng với việc minh họa bằng lược đồ trên máy, sau đó cho học sinh quan sát lược đồ chiến dịch và thuật lại chiến dịch bằng các mũi tên chỉ đường, hướng tấn công của quân ta và mũi tên chỉ đường, hướng hành quân và rút lui của địch và giáo viên cho xuất hiện hình cờ đỏ sao vàng để biểu thị vùng được giải phóng. Cụ thể: Ngày 16 - 9 - 1950 ta nổ súng tấn công Đông Khê (đến đây giáo viên cho nháy chuột để xuất hiện vị trí Đông Khê). Địch ra sức cố thủ trong các lô cốt và dùng máy bay bắn phá suốt ngày đêm. Với tinh thần quyết thắng, bộ đội ta đã anh dũng chiến đấu. Sáng 18 - 9 - 1950 quân ta chiếm được cứ điểm Đông Khê (giáo viên cho nháy chuột để biểu tượng cờ đỏ sao vàng hiện ra tại Đông Khê và tiếp theo là 750 km trên dải biên giới Việt Trung). 
 Việc sử dụng lược đồ động trong bài này cũng như các bài khác có nội dung liên quan đến diễn biến các phong trào sẽ góp phần tăng tính trực quan, sinh động giúp cho các em có thể nhận thức lịch sử một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn, sâu sắc hơn.
Cao B»ng
§«ng Khª
B¾c K¹n
L¹ng S¬n
§­êng sè 4
Tương tự khi dạy Bài 17: Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (SGK Lịch sử và Địa lí 5, trang 37). 
 	Giáo viên hỏi học sinh: “Vì sao Pháp – Mĩ lại chọn Điện Biên Phủ để xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương (pháo đài không thể công phá)? Sự hùng mạnh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được biểu hiện như thế nào?”, giáo viên trình chiếu cho các em quan sát lược đồ khắc họa về địa thế của Điện Biên Phủ, về sự gấp rút xây dựng lực lượng cơ động mạnh của quân Pháp ở đây, kết hợp với phương pháp trao đổi, đàm thoại, nêu vấn đề, Lược đồ được xây dựng với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, có hiệu ứng sinh động, kèm theo hình ảnh và đoạn phim tư liệu miêu tả về cứ điểm, nên học sinh cảm nhận được các sự kiện lịch sử sâu sắc. Phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu bài như trên sẽ giúp các em hiểu rằng, trước những đòn tiến công quyết liệt của quân dân ta, Nava đã quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm hùng mạnh, chấp nhận giao chiến với ta. Điều này xuất phát từ nhận định: Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn, bao quanh toàn là đồi núi trùng điệp, nhưng lại là “chìa khóa” để bảo vệ Thượng Lào và chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc Việt Nam. Đối với Việt Minh, nơi đây quá xa hậu phương, địa hình rừng núi hiểm trở nên tiếp tế sẽ khó khăn; lúc này ta chỉ có thể sử dụng lực lượng khoảng 1 đại đoàn, lại không thể sử dụng pháo cỡ lớn được, cùng lắm là pháo 75mm; ngoài ra, nếu chẳng may thất bại, Pháp sẽ dễ dàng mở một con đường tháo chạy sang Lào Từ nhận định này, được sự giúp đỡ của Mĩ, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm hùng mạnh nhất Đông Dương với 49 cứ điểm, chia làm 3 phân khu lớn là phân khu Bắc, phân khu Trung tâm và phân khu Mường Thanh. Với số quân tinh nhuệ là 16.200 tên, lại được trang bị những loại vũ khí hiện đại nhất, nên cả Pháp và Mĩ đều nhận định: Điện Biên Phủ là một “pháo đài bất khả xâm phạm”.
Trên cơ sở hiểu rõ lí do vì sao Pháp – Mĩ lại chọn Điện Biên Phủ để xây dựng tập đoàn cứ điểm hùng mạnh và biểu hiện về sự hùng mạnh của nó, học sinh cũng hình thành được khái niệm, thuật ngữ mới: Cứ điểm Điện Biên Phủ là gì? Khi dạy tới phần diễn biến của chiến dịch qua từng đợt với các phương tiện kỹ thuật hiệu ứng hỗ trợ, giáo viên có thể cho học sinh thấy được bức tranh sống động của chiến dịch Điện Biên Phủ với những đợt tấn công của quân ta, sự viện trợ, rút chạy của Pháp-Mĩ trên chiến trường Điện Biên Phủ. Một lần nữa ta khẳng định một bản đồ (lược đồ) động sẽ dễ dàng khắc sâu kiến thức và gây hứng thú hơn nhiều với học sinh so với một bản đồ (lược đồ) tĩnh.
	Cách xây dựng và sử dụng lược đồ cũng tương tự như bài Bài 15: Chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950 đã nêu ở trên
2.4. Kết quả:
 	Việc ứng dụng công nghệ thông tin đã và đang ngày càng trở thành công cụ đắc lực trong đổi mới phương pháp dạy học trong các nhà trường. Trong những năm học qua, bằng việc thực hiện các biện pháp trên, tôi thấy chất lượng dạy – học nói chung và chất lượng dạy học môn Lịch sử nói riêng của lớp 5 trường tôi đạt kết quả cao. Học sinh được tiếp cận với phương pháp dạy học mới đã say mê, hứng thú học tập hơn. Các em không chỉ được cung cấp những kiến thức trong sách giáo khoa mà bằng những hình ảnh, âm thanh sống động, các em như được đi đến những chân trời mới lạ; Có những nơi không bao giờ có thể đặt chân tới được nhưng các em vẫn được quan sát như ở ngay trước mắt vậy. Chính điều đó đã giúp cho các em mở rộng, khám phá nhiều tri thức mới của nhân loại, kiến thức lịch sử của dân tộc. 
 	Đặc biệt, trong các ngày lễ như 20/11, 22/12, 26/3... hay các tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp, bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin, thường tổ chức các trò chơi học tập như: rung chuông vàng, giải ô chữ, chiếc nón kỳ diệu...dưới hình thức “ Học mà chơi - Chơi mà học” củng cố, mở rộng kiến thức các môn học và kiến thức cuộc sống, xây dựng các kỹ năng sống cho học sinh góp phần thực hiện tốt phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. 
Nhờ áp dụng những kinh nghiệm trên trong năm học vừa qua chất lượng học tập ở lớp tôi nói riêng chất lượng dạy- học của giáo viên và học sinh trường tôi nói chung có hiệu quả rõ rệt. Kết quả trên được thể hiện qua các mặt sau: 
a. Đối với học sinh:
- Học sinh được tiếp cận với các hình ảnh trực quan sinh động, giúp các em dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu nội dung bài học.
- Xoá bỏ cảm giác khô khan giáo điều trong các giờ học Lịch sử để môn học này trở nên gần gũi với các em hơn.
 	- Kết quả thực tế cho thấy, đa số các em học sinh đều tỏ ra hứng thú với bài học có ứng dụng công nghệ thông tin, tạo ra sự tập trung chú ý cao độ, giúp các em khắc sâu kiến thức về lịch sử, từ đó các em có thể thuộc bài ngay tại lớp.
- Học sinh phát huy được năng lực tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập. Các em tiến bộ rất nhiều về kĩ năng nói, kĩ năng trả lời câu hỏi, kĩ năng bày tỏ ý kiến, sự mạnh dạn, tự tin khi trình bày ý kiến của mình trước tập thể.
b. Đối với giáo viên:	
- Tạo được hiệu ứng rõ rệt trong tập thể giáo viên về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, giáo viên đam mê, sámg tạo hơn, không còn cảm giác né tránh hoặc ngại soạn giáo án điện tử, kiến thức và kĩ năng về công nghệ thông tin được nâng cao. 
- Giáo viên tự tin khi lên bục giảng.
- Tiết kiệm được thời gian so với sử dụng bằng các đồ dùng trực quan (tranh ảnh).
- Đẫn dắt học sinh vào vấn đề một cách nhẹ nhàng và sinh động.
c. Đối với nhà trường:
- Nâng cao chất lượng bài dạy và tay nghề của giáo viên trong việc ứng dụng công nghệ thông tin.
- Chất lượng học tập của học sinh được cải thiện rõ rệt.
- Kho tư liệu đồ dùng dạy học được tăng cường thêm.
- Giáo viên trong trường có cơ hội tham khảo, học hỏi lẫn nhau về cách thực hiện, cách giảng dạy giáo án điện tử và có ngân hàng bài giảng ứng dụng công nghệ thông tin cho nhà trường làm tư liệu.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Từ kết quả trên cho thấy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử đã thể hiện mối quan hệ biện chứng về con đường nhận thức của học sinh đi từ “trực quan sinh động” đến“tư duy trừu tượng”. Ở đây, nhờ được quan sát hình ảnh sinh động, được nghe giảng và tư duy lịch sử mà những khoảng cách về thời gian, không gian của sự kiện dường như đang xích lại gần với khả năng nhận thức của các em hơn. Về điểm này, nhiều nhà giáo dục lịch sử đã nhấn mạnh: “Nội dung của các hình ảnh lịch sử, của bức tranh quá khứ càng phong phú bao nhiêu thì hệ thống khái niệm mà học sinh thu nhận được càng vững chắc bấy nhiêu”. Đồng thời, việc sử dụng những loại đồ dùng trực quan có liên quan đến phương tiện kĩ thuật hiện đại không chỉ góp phần tạo biểu tượng lịch sử cụ thể cho học sinh, miêu tả bề ngoài sự kiện, mà còn đi sâu vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sự kiện.
Để việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới theo yêu cầu phương hướng đổi mới có hiệu quả, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một yêu cầu cấp thiết trong công tác dạy học. Trước đây ta thường quan niệm thiết bị dạy học phân môn Lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở nên phong phú, sinh động. Ngày nay ngoài chức năng, tác dụng đó, người ta còn đặc biệt nhấn mạnh đó là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc truyền bá và nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn giảng. Học sinh có điều kiện chủ động tích cực tham gia vào quá trình tự nhận thức lịch sử một cách tốt nhất và có hứng thú học tập phân môn Lịch sử.
3.2. Kiến nghị:
Đối với Phòng Giáo dục:
 	- Phòng Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức Hội thi “ Thiết kế bài giảng điện tử” để kích thích lòng đam mê, sáng tạo của giáo viên.
 	- Cần sớm đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể với những tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin. 
a. Đối với nhà trường:
 	- Nâng cao nhận thức về tin học và công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ giáo viên trong trường để họ thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của nó.
 	- Tăng cường công tác bồi dưỡng kiến thức tin học cho đội ngũ cán bộ giáo viên.
 	- Khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử trong các bài dạy và trong các hoạt động khác.
 	- Tăng cường cơ sở vật chất trường học, trang bị thêm phòng đa năng và đầu tư kinh phí mua máy chiếu, máy quay, máy chụp; Kết nối mạng Internet thông suốt để cán bộ giáo viên cập nhật kiến thức thông tin kịp thời.
b. Đối với giáo viên: 
 	- Cần mạnh dạn, không ngại khó, tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học. Việc tích cực tự thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử sẽ giúp cho giáo viên rèn luyện được nhiều kỹ năng và phối hợp tốt các phương pháp dạy học tích cực khác.
 	- Khi thiết kế bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu. Nội dung bài giảng điện tử cần cô đọng, xúc tích, hình ảnh các mô phỏng cần sát chủ đề, không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy học và sự phát triển của học sinh.
 	- Cần kết hợp dạy học truyền thống với dạy học có sử dụng công nghệ thông tin.
Trên đây là toàn bộ những vấn đề về kinh nghiệm “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học phân môn Lịch sử lớp Năm” mà tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và đúc rút được qua thực tế dạy học. Do khhả năng, điều kiện thời gian còn hạn hẹp và phạm vi của đề tài nên còn một số khía cạnh chưa có điều kiện đề cập sâu rộng hơn. Tôi kính mong được Hội đồng Khoa học các cấp đánh giá và góp ý để đề tài có tính khả thi cao hơn trong thực tế.
 Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thọ Trường, ngày 20 tháng 3 năm 2018
 Tôi xin cam đoan đây là SKKN 
 của mình viết, không sao chép
 nội dung của người khác 
 (Ký và ghi rõ họ tên)
 Trịnh Thị Mai
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 2699/CT-BGDĐT ngày 08/8/2017 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2017 - 2018 của nghành giáo dục.
2. Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày 15/9/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa về nhiệm vụ chủ yếu của Nghành giáo dục và đào tạo Thamh Hóa năm học 2017 - 2018.
3. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 5.
4. Sách giáo viên Lịch sử lớp 5.
5. Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử ( tài liệu tham khảo) Bộ Giáo dục và Đào tạo.
6. "Phương pháp dạy học Lịch sử" - Phan Ngọc Liên. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội 2002.
7. Hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
8. Cuốn " Khai thác kênh hình trong SGK Lịch sử" Trịnh Đình Tùng - NXB Giáo dục 2007.
9. Cuốn "Tư liệu Lịch sử 9". Nguyễn Quốc Hùng - Bùi Tuyết Hương - Nguyễn Hoàn Thái. Nhà xuất bản Giáo dục 2007
10. Tạp chí, tạp san giáo dục.
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC 
HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, 
CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Mai
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường Tiểu học Thọ Trường, xã Thọ Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá xếp loại
Kết quả đánh giá xếp loại
Năm học đánh giá xếp loại
1
Một việc làm nhỏ trong dạy tập làm văn nói lớp 4; 5
Phòng GD&ĐT
C
1999 - 2000
2
Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải các bài toán về tỉ số
Phòng GD&ĐT
C
2000 - 2001
3
Giúp học sinh lớp 5 giải các bài Toán có nội dung hình học
Phòng GD&ĐT
C
2007 - 2008
4
Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi phân môn Tập làm văn
Phòng GD&ĐT
C
2009 - 2010
5
Một số biện pháp giáo dục đạo dức cho học sinh lớp 5 đạt hiệu quả.
Phòng GD&ĐT
B
2013 - 2014
6
Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học giải bài toán có lời văn lớp Ba
Phòng GD&ĐT
C
2015 - 2016
7
Một số kinh nghiệm về Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học phân môn Lịch sử lớp Năm
Phòng GD&ĐT
B
2017 - 2018

 Thọ Trường, ngày 22 tháng 5 năm 2018
 Người lập:
 Trịnh Thị Mai

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_ve_ung_dung_cong_ng.doc