Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Lịch sử Trung học cơ sở

1.1. Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo dục nước ta từ năm 1960. Cũng trong thời gian đó, trong các trường sư phạm có khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ II năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong các phương hướng cải cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Công cuộc cải cách giáo dục lần III từ năm 1981 đến nay, đồng thời chú trọng cả ba mặt: Cải cách hệ thống giáo dục; cải cách nội dung và phương pháp dạy học.

1.2. Hiện nay, phương pháp dạy học Lịch sử đã được chú trọng đổi mới, cải tiến nhiều góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Tuy nhiên, nhìn chung phương pháp dạy học Lịch sử vẫn chưa theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo. Có thể nói, phương pháp dạy học Lịch sử còn có phần bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu về phương pháp dạy học là một trong những trở ngại của việc nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do giáo viên chưa nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vai trò, vị trí của phương pháp dạy học, chưa tiếp cận được những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp dạy học và chú trọng phát huy tính tích cực của học sinh.

docx 19 trang SKKN Lịch Sử 04/04/2025 190
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Lịch sử Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Lịch sử Trung học cơ sở

Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Lịch sử Trung học cơ sở
ốc tập hợp lại, theo sau là một toán phụ nữ. Họ kéo cả lên gò Mông mác. Khi đoàn người tới gần, binh lính của Chie đã chĩa nòng súng vào nhân dân.
- Bắn! Tên tướng chỉ huy ra lệnh cho quân đội nổ súng.
Nhưng ngay lập tức một hạ sĩ quan bước ra khỏi hàng ngũ và hô lớn “ Quay nòng súng xuống đất !”
Một giây nặng nề trôi qua. Những nòng súng của các binh sĩ sẽ hướng về đâu? Theo lệnh tên tướng, bắn vào đám đông máu sẽ đổ, hay làm trái lệnh chỉ huy? Một lần nữa viên tướng gào lên “Bắn!”. Trong giây phút căng thẳng đó, cái thiện đã thắng cái ác trong mỗi người lính. Binh lính không chịu bắn vào nhân dân, quay lại trói viên chỉ huy và đoàn kết với Quốc dân quân. Đồi Mông- mác và trọng pháo vẫn nguyên vẹn trong tay Quốc dân quân.
Theo đà thắng lợi đó, tới trưa, Quốc dân quân cùng quần chúng từ các xóm thợ ngoại ô tiến vào trung tâm Pari. Chi-e thấy nguy, hấp tấp kéo đánh nhưng quân đội đã mất tinh thần, rút lui về Véc- xai. Đến chiều, các cơ quan chính phủ đều lọt vào tay quân cách mạng. Cờ đỏ phấp phới bay trên nóc sở Bộ chiến tranh và Tòa thị chính Paris. Cuộc Cách mạng Vô sản thắng lợi đầu tiên trên thế gới. Uỷ ban Trung ương Vệ quốc quân trở thành Chính phủ lâm thời”.
2.3.2. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề:
Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một hệ thống dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo bao gồm sự kết hợp những phương pháp dạy học và việc học có những nét cơ sở của sự tìm tòi khoa học. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học – phát triển tính tích cực, tính tự lực trong năng lực sáng tạo, hình thành cơ sở thế giới quan cho học sinh.
Bản chất của dạy học đặt và giải quyết vấn đề là tạo nên một chuỗi những tình huống vấn đề và điều kiện hoạt động của học sinh nhằm tự lực giải quyết những vấn đề học tập. Việc trình bày theo phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề đòi hỏi giáo viên phải nắm vững sự kiện, biết tạo ra tình huống có vấn đề, nhằm phát huy năng lực nhận thức của học sinh. Vì vậy, cách trình bày đặt và giải quyết vấn đề có nhiều ưu điểm hơn việc thông báo tài liệu, đọc lại sách giáo khoa. Trình bày đặt và giải quyết vấn đề vừa cung cấp cho học sinh những sự
kiện cần thiết để hiểu biết lịch sử, vừa tạo ra sự suy nghĩ cho các em.
Ví dụ: Khi dạy Bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên – Lịch sử - Địa lý lớp 7 phần Lịch sử.
Phần 3. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1287 – 1288.
Để tạo được tình huống có vấn đề, giáo viên giới thiệu dẫn dắt vào bài mới: “Sau hai lần xâm lược Đại Việt thất bại, nhà Nguyên không chịu từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Với kế hoạch xâm lược Đại Việt lần thứ ba của chúng như thế nào? Quân dân nhà Trần đã tổ chức kháng chiến ra sao? Đó là nội dung bài học hôm nay.”
Đây là ví dụ về tình huống có vấn đề. Tình huống là mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết mà giáo viên tạo ra, nhằm thu hút sự chú ý, hứng thú học tập của học sinh, học sinh cần giải quyết một điều mới, điều chưa biết, trên cơ sở kiến thức của bài học trước. Sự hướng dẫn, gợi mở của người thầy để học sinh tự tìm ra bản chất của sự kiện mới.
2.3.3. Phương pháp dạy học trực quan:
Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trong, trước và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, củng cố, hệ thống hoá và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hoá lịch sử của học sinh.
Các phương tiện trực quan rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử đòi hỏi giáo viên phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng của bài học để lựa chọn đồ dùng thích hợp, có phương pháp thích hợp trong việc sử dụng mỗi loại đồ dùng. Từ đó, phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan, đảm bảo kết hợp lời nói với việc trình bày đồ dùng, rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi xây dựng và sử dụng đồ dùng học tập ( vẽ bản đồ, tường thuật lược đồ, miêu tả
hiện vật).
Việc sử dụng kênh hình dạy học như trên không chỉ có tác dụng giúp học
sinh tạo biểu tượng chân thực về quá khứ, mà còn khắc sâu kiến thức, qua đó hình thành khái niệm và rút ra bài học, quy luật của lịch sử. Đặc biệt nhờ có yếu tố “Trực quan sinh động” học sinh sẽ dễ dàng đạt tới “Tư duy trừu tượng” tạo thêm niềm hứng thú, say mê trong học tập bộ môn, qua đó từng bước nâng cao hiệu quả bài học.
	Trước đây, đa số các trường đều thiếu thốn về cơ sở vật chất, nghèo nàn về các thiết bị dạy học, đối với bộ môn Lịch sử chỉ có một số loại đơn giản như: Lược đồ, sơ đồ, bản đồ...
	Theo quan niệm giáo dục trước đây cho rằng dụng cụ trực quan là phương tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, dụng cụ minh họa cho các kiến thức đã truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ.
	Theo phương pháp sử dụng này thì dụng cụ trực quan chưa phát huy hết vai trò của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa học của nó. 
	Vì vậy, để cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với chương trình giáo dục mới ở bộ môn Lịch sử, thiết bị các trường học đã trang bị khá đầy đủ các loại dụng cụ trực quan, chủ yếu là các loại sau:
	 Như vậy phương pháp dạy học trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THCS là một việc làm rất quan trọng, rất phong phú và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khoá. Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy – học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học này vào từng bài phải có sự nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Cần trách khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”...đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá . 
2.3.4. Phương pháp vấn đáp:
Phương pháp vấn đáp là phương pháp giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho họ sáng tỏ những vấn đề mới, tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những điều đã học hoặc những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống. Từ đó, giúp học sinh củng cố, mở rộng đào sâu, tổng kết, hệ thống hoá tri thức đã tiếp thu được, nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp học sinh tự kiểm tra, đánh giá và lĩnh hội tri thức.
Trong sử dụng phương pháp vấn đáp, đòi hỏi giáo viên phải có nghệ thuật đặt câu hỏi. Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, không thể có hai câu trả lời đúng, hình thức gọn gàng. Học sinh phải mạnh dạn trả lời, nếu sai học sinh khác bổ sung, qua đó kích thích hoạt động chung của lớp. Giáo viên không chỉ chú ý đến kết quả trả lời của học sinh mà cả cách diễn đạt câu trả lời một cách chính xác, rõ ràng, hợp lôgíc, là điều kiện quan trọng để phát triển tư duy lôgíc của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy Bài 1: Quá trình hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu - Lịch sử - Địa lý lớp 7 phần Lịch sử – Mục 4: Sự xuất hiện và vai trò của thành thị Trung đại.
GV có thể đưa ra một số câu hỏi ở các mức độ khác nhau, học sinh suy nghĩ trả lời.
? Thành thị trung đại xuất hiện như thế nào? (Cuối thế kỉ XI, sản xuất phát triển, hàng hoá dư thừa được đưa đi bán – thị trấn ra đời – thành thị trung đại xuất hiện.)
? Cư dân trong thành thị gồm những ai? Họ làm những nghề gì? (Thợ thủ công và thương nhân)
? Thành thị ra đời có ý nghĩa như thế nào? (Thúc đẩy sản xuất phát triển, tác động đến sự phát triển của xã hội phong kiến.)
2.3.5. Dạy học bám sát theo chuẩn kiến thức – kĩ năng:
Thực tế hiện nay, giáo viên không quan tâm đến chương trình chỉ chú ý đến SGK- là tài liệu để học sinh học tập, không coi SGK là pháp lệnh, cố dạy hết SGK gây quá tải. Yêu cầu đặt ra là phải bám sát chuẩn kiến thức – kĩ năng, thông qua SGK để xác định, lựa chọn nội dung cơ bản, kiến thức trọng tâm, giúp học sinh nắm “ít” mà “ tinh”.
Ví dụ: Khi dạy Tiết 36. Bài 24. Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873 – Lịch sử lớp 8.
Phần I. Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873.
Mục 1. Chiến sự ở Đà Nẵng những năm 1858 – 1859.
GV cần cung cấp được những kiến thức sau đây theo đúng chuẩn kiến thức – kĩ năng.
 	- Nguyên nhân Pháp xâm lược:
+ Từ giữa thế kỉ XIX, các nước phương Tây đẩy mạnh xâm lược các nước phương Đông để mở rộng thị trường, vơ vét tài nguyên.
+ Việt Nam có vị trí đại lí thuận lợi, giàu tài nguyên thiên nhiên.
+ Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng, suy yếu.
- Pháp đánh Đà Nẵng:
+ Lấy cớ bảo vệ đạo Gia-tô, liên quân Pháp-Tây Ban Nha kéo đến Việt Nam.
+ Ngày 1 – 9 – 1858, quân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng.
+ Quân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, lập phòng tuyến, anh dũng chống trả.
+ Sau 5 tháng xâm lược, Pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bước đầu thất bại.
Tóm lại, việc đưa ra những phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử giúp cho học sinh lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức, là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, gợi dậy những xúc cảm lịch sử, kích thích hứng thú học tập của học sinh, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm cho các em. Như vậy, hoạt động tích cực, độc lập của học sinh trong dạy học lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường THCS.
2.3.6. Kết hợp các phương pháp trong quá trình giảng dạy:
          Để giờ học trở nên sinh động hấp dẫn, có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải biết phối kết hợp các phương pháp một cách nhuần nhuyễn. Sử dụng quá thiên về một phương pháp nào sẽ làm giờ học trở nên khô khan, làm mất hứng thú học tập của học sinh.
3. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm.
3.1 Kết quả thực nghiệm của vấn đề:
Đối tượng áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Học sinh các lớp 9A, 8B, 7A, 6C trường THCS Tiên Phong – Ba Vì – Hà Nội.
           Khi áp dụng : “Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của người học trong môn Lịch sử THCS”  với học sinh ở  trường Trung học cơ sở Tiên Phong tôi nhận thấy:
Trong thời gian đầu nhiều học sinh chưa thực sự hứng thú với bộ môn lịch sử kết quả học tập chưa cao. Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này đối với học sinh các lớp 9A, 8B, 7A, 6C tôi nhận thấy các em học sinh đã có những thay đổi, sự tiến bộ trong học tập bộ môn. Nhiều em tỏ ra thích thú với việc học, tích cực trong học bài và làm bài tập về nhà.
 	- Kết quả học tập bộ môn lịch sử của học sinh sau khi áp dụng sáng  kiến trong dạy học:
Khối lớp
Sĩ số
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
45
12
26,6
15
33,3
18
40,0
0
0
8B
39
10
25,6
13
33,4
16
41,0
0
0
7A
35
8
22,9
11
31,4
16
45,7
0
0
6C
38
9
23,7
12
31,6
17
44,7
0
0
 	Qua bảng thống kê có đối chiếu ở những tuần đầu của học kỳ I năm học 2022 -2023 cho thấy đã có những chuyển biến đáng kể, số học sinh chuyển loại từ trung bình lên khá, từ khá lên giỏi có số lượng khá lớn. Điều này cho thấy những hiệu quả ban đầu của sáng kiến khi đưa vào thực tiễn. Nhưng sự khác biệt lớn nhất đó chính là sự yêu thích của các em và bản thân các em đã có những nhận thức đúng về cách học tập ở môn học.
3.2. Đánh giá hiệu quả của việc thực hiện sáng kiến:
Việc sử dụng kết hợp linh hoạt và sáng tạo với các phương pháp dạy học khác nhau: Vấn đáp, đặt và giải quyết vấn đề, sử dụng đồ dùng trực quan, tích hợp môi trường Kết hợp với trình bày miệng sinh động, ghi bảng khoa học là những việc làm cần thiết giúp cho giáo viên hoàn thành tốt một tiết dạy trên lớp. Đó chính là cơ sở nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử ở trường THCS. Góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập lịch sử của học sinh, giúp học sinh nắm kiến thức nhanh và vững chắc. Qua đó cũng góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn Lịch sử ở trường THCS.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
  	Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào tạo con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Mỗi môn học ở trường THCS với đặc trưng riêng đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó có bộ môn Lịch sử. Những kiến thức lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc từ nguồn gốc đến nay có tác dụng hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho học sinh. Những người thực, việc thực trong quá khứ sẽ gợi dậy trong học sinh những tư tưởng, tình cảm đúng đắn, mà những tư tưởng tình cảm này là hành trang tối cần thiết cho thế hệ trẻ trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới.
Song muốn phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ bộ môn trong việc giáo dục học sinh, cần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Thực trạng hiện nay, muốn nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là rất cần thiết. Vì vậy, trong mỗi giờ học lịch sử, giáo viên cần kết hợp các phương pháp dạy học một cách nhuần nhuyễn, hợp lí thì giờ học sẽ đạt được hiệu quả cao. Hơn nữa, học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, năng lực sáng tạo trong học tập. Vấn đề này còn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh.
Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, tôi đã đưa ra một số phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS. Những phương pháp mà tôi đưa ra đều dựa trên cơ sở lí luận về phương pháp dạy học lịch sử và hệ thống phương pháp dạy học ở trường THCS. Hi vọng các phương pháp đó sẽ nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử ở trường THCS.
2. Khuyến nghị:
- Đối với Phòng Giáo dục: Hỗ trợ kinh phí từ tăng cường cung cấp các thiết bị, đồ dùng dạy học cần thiết để phục vụ cho việc học tập và giảng dạy. Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng để giáo viên có cơ hội học hỏi, cọ xát nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp dạy học.
- Đối với Nhà trường: Tạo điều kiện để cho giáo viên, học sinh được đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm, học tập nâng cao chất lượng dạy và học.
- Đối với giáo viên trong Nhà trường: Tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, luôn tìm tòi đổi mới các phương pháp dạy học để học sinh hứng thú, say mê học tập.
- Đối với học sinh: Cần tích cực học hỏi, tìm tòi, chủ động trong học tập và lĩnh hội kiến thức.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi, trong quá trình vận dụng cũng như tổng hợp thành sáng kiến có thể còn hạn chế rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung của đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
                                                               Tiên Phong, tháng 02 năm 2023
                                                                                  NGƯỜI VIẾT
                                                                             Nguyễn Thị Thúy Hà

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_day_hoc_phat_huy_ti.docx