Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử 9 ở trường THCS
Đổi mới phương pháp dạy học với tinh thần đổi mới mạnh mẽ theo hướng hiện đại, phát huy khả năng sáng tạo trong việc vận dụng các phương pháp dạy học mới, kết hợp hài hòa với phương pháp dạy học truyền thống để có giờ dạy đạt hiệu quả và chất lượng. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Dạy cách học, cách nghĩ để giải quyết vấn đề, tự tìm ra con đường nhanh nhất cho bản thân trong quá trình tiếp thu kiến thức.
Thực trạng dạy học môn Lịch sử trong các trường THCS hiện nay gặp phải nhiều khó khăn. Môn Lịch sử lớp 9 có khối lượng kiến thức tương đối nhiều. Nội dung lịch sử trong một năm học bao gồm cả phần lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới, với nhiều sự kiện, nhiều chuỗi kiến thức, phần đông học sinh không thích học lịch sử vì đây là môn học được các em coi là rất khó, lại là môn học phụ, nên việc dạy học lịch sử của giáo viên trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử 9 ở trường THCS

tế bào lấy từ tuyến vú của một con cừu đang mang thai Hình 25: Năng lượng xanh (điện mặt trời) ở Nhật Bản. Là một nước nghèo tài nguyên, Nhật Bản đã sớm áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến để tận dụng ánh sáng mặt trời phát minh ra điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt Hình 26: Năm 1969, Astrong nhà du hành vũ trụ người Mĩ là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã đặt chân lên mặt trăng 2.3.3. Tự sưu tầm tranh ảnh, tư liệu... ngoài sách giáo khoa có nội dung phù hợp Việc sưu tầm này dựa trên cơ sở những kiến thức trong SGK, giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm ở nhà để dùng minh họa cho tiết học ở trên lớp. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo các bước sau: * Lựa chọn những vấn đề cơ bản cần được làm nổi bật bằng các nguồn tư liệu (các nguồn tư liệu này có thể tìm trong các loại sách báo cũ có liên quan, trên internet hoặc trong các môn học liên môn) Ví dụ: Trong Tiết 25 - Bài 22(lịch sử 9): “Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945”. Khi dạy mục “ I. Mặt trận Việt Minh ra đời (19/5/1941)” Giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tài liệu nói về sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở về sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước. Học sinh có thể sẽ những nguồn tư liệu khác nhau, tuy nhiên giáo viên cần chọn lọc trong số đó nguồn tư liệu phù hợp, và nếu trường hợp trong số những tư liệu học sinh đã chuẩn bị nhưng không có nội dung phù hợp, thì giáo viên sẽ sử dụng nguồn tư liệu mà giáo viên đã chuẩn bị để giới thiệu cho học sinh như sử dụng bài thơ “Người đi tìm hình của nước”(Tác giả: Chế Lan Viên) Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa đông băng gía Và sương mù thành Luân Đôn có nhớ Giọt mồ hôi người nhỏ giữa đêm khuya. Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi Những đất tự do những trời nô lệ Những con đường cách mạng đang tìm đi Đêm mơ nước ngày thấy hình của Nước Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà Ôi đường đến với Lê Nin là đường về tổ quốc Tuyết Mát cơ va sáng ấy lạnh trăm lần Trông tuyết trắng như đọng nghìn nước mắt Lê Nin mất rồi nhưng Bác chẳng dừng chân Luận cương của Lê Nin theo người về quê Việt Biên giới còn xa nhưng Bác đã đến rồi Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai Qua bài thơ, học sinh sẽ xây dựng trong tâm trí mình chân dung về nhân vật lịch sử mà tên tuổi đã trở thành huyền thoại, một hình tượng nghệ thuật có sức rung động và toả sáng mạnh mẽ, một tinh thần thiết tha yêu nước, chí khí cương quyết đi tìm ra hình dáng cho đất nước Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam. Thông qua nội dung bài thơ, học sinh cũng đã khái quát được con đường và hoàn cảnh và con đường ra đi tìm đường cứu nước các em đã được học trong chương trình lịch sử 8, đồng thời cũng thấy được kết quả của hành trình ra đi tìm đường cứu nước mà các em chuẩn bị tìm hiểu ngay trong tiết học. * Ghi tóm lược những nội dung quan trọng có tác dụng bổ sung cho bài học trong sách giáo khoa, hoặc lưu lại những tranh ảnh hay lược đồ có thể minh hoạ cho kiến thức đã học, mở rộng sự hiểu biết Ví dụ: Để chuẩn bị cho học sử 9-Tiết 7-Bài 6: Các nước châu Phi. Trong mục I, GV yêu cầu học sinh chuẩn bị hình ảnh minh họa cho tình trạng đói nghèo, lạc hậu ở châu Phi. Hoặc trong mục II, GV yêu cầu HS tìm hình ảnh minh họa cho sự tàn bạo của chế độ phân biệt chủng tộc mà chính quyền thực dân da trắng đã làm đối với nhân dân Nam Phi. Trong trường hợp HS đã chuẩn bị hình ảnh minh họa nhưng chưa thực sự sát với nội dung GV yêu cầu nên GV cũng phải chuẩn bị trước từ nhà và hỗ trợ hình ảnh cho các em khi cần thiết Đôi dép của người châu Phi được làm từ vỏ chai nước khoáng “Một người thoát chết trong nạn diệt chủng đang khấn trước đầu lâu của các nạn nhân” Một người thoát chết trong nạn diệt chủng đang khấn trước đầu lâu của các nạn nhân * Dựa trên các nguồn tư liệu đó, học sinh tích cực tư duy bằng cách tự đặt ra những vấn đề cần giải quyết giúp nâng cao kiến thức. Ví dụ: Qua việc quan sát bức ảnh “Một người thoát chết trong nạn diệt chủng đang khấn trước đầu lâu của các nạn nhân”, em có nhận xét gì về chế độ phân biệt chủng tộc mà chính quyền da trắng đã áp dụng ở Cộng hòa Nam Phi? 2.3.4 Tự học bằng việc lập bản đồ tư duy. Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Đặc biệt bản đồ tư duy là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng bản đồ tư duy theo một cách riêng. Do đó, bản đồ tư duy không chỉ do giáo viên lập ra để làm phương tiện dạy học mà giáo viên cần hướng dẫn cho chính các em biết cách chủ động việc lập bản đồ tư duy nhằm phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của học sinh. Như vậy, chúng ta áp dụng dạy bản đồ tư duy được ở nhiều dạng bài: kiểm tra bài cũ, học bài mới, ôn tập, hệ thống chương hoặc giai đoạn, làm bài tập lịch sử, củng cố bài. Giáo viên hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy: (Nội dung chìa khóa là cây cành nhánh) từ đó học sinh mở rộng, phát triển thêm.) Thực hiện dạy học bằng cách lập BĐTD được tóm tắt qua 4 bước như sau: - Bước 1: Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. - Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. - Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. - Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Khi củng cố kiến thức giáo viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức bài học bằng bản đồ tư duy. (Lưu ý: - BĐTD là một sơ đồ mở, GV yêu cầu các nhóm HS nên vẽ các kiểu BĐTD khác nhau, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức, cấu trúc (nếu cần)). - Ghi bảng: Giáo viên tóm tắt bài học bằng một sơ đồ kiến thức (Dàn bài). 2.3.5. Tự học trong các tiết học ngoại khóa trong trường Trong chương trình lịch sử 9 không có tiết học dành cho hoạt động ngoại khóa, vì vậy giáo viên có thể lồng ghép hoạt động này vào tiết sử địa phương. Tuy nhiên thời gian giành cho chương trình địa phương cũng rất hạn hẹp(2 tiết/năm), nên giáo viên chỉ có thể sử dụng hình thức ngoại khóa bằng những công việc của từng cá nhân hay một nhóm nhỏ. Có rất nhiều hình thức ngoại khóa trong tiết học: - Kể chuyện: nhằm giúp học sinh rèn luyện kĩ năng kể lại vắn tắt nội dung một sự kiện lịch sử, một câu chuyện hay một cuốn sách - Đàm thoại: bày tỏ ý kiến của mình để củng cố kiến thức, lòng tin sau khi đọc, nghe kể, thảo luận về câu chuyện lịch sử - Hát các ca khúc cách mạng.... Ví dụ: khi dạy tiết 47(lịch sử 9): Sử địa phương: “Thanh Hóa trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ”, giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu bài trước ở nhà và sưu tầm các tư liệu, mẩu chuyện, tranh ảnh, các ca khúc về những sự kiện , nhân vật lịch sử của quê hương Thanh Hóa trong hai cuộc kháng chiến Trong bài giảng, giáo viên sẽ yêu cầu học sinh kể chuyện về những tấm gương yêu nước của nhân dân Thanh Hóa qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tuy nhiên giáo viên cần định hướng để các em tập trung vào hai nhân vật anh hùng têu biểu trong hai cuộc kháng chiến là anh Tô Vĩnh Diện và bà Ngô Thị Tuyển – “Người phụ nữ khỏe nhất Việt Nam”. Sau khi học sinh kể chuyện, giáo viên hướng dẫn các đối tượng học sinh trong lớp cùng trao đổi, đàm thoại về những tấm gương đã hi sinh anh dũng vì độc lập dân tộc. Tứ đó để các em hình thành ý thức trách nhiệm của bản thân trong học tập và xây dựng quê hương đất nước Bên cạnh đó, giáo viên kết hợp yêu cầu các nhóm học sinh cử đại diện nhóm lên trưng bày, giới thiệu một số tranh ảnh đã sưu tầm ở nhà một cách có chọn lọc phù hợp với thời gian của tiết học Đặc biệt, trong tiết dạy lịch sử, việc sử dụng âm nhạc là một cách có tác dụng rất lớn. Khi dạy tiết 47- Sử địa phương (lịch sử 9) giáo viên có thể sử dụng Ca khúc “ Chào sông Mã anh hùng” của nhạc sĩ Xuân Giao để học sinh thưởng thức làm cho bài giảng thêm sống động. Ca khúc “ Chào sông Mã anh hùng” của nhạc sĩ Xuân Giao đã làm hàng triệu người Việt xao xuyến khi nghe bài hát. Chiến tranh leo thang của giặc Mỹ lan rộng khắp miền bắc, tuyến lửa Hàm Rồng Nam Ngạn- là một trọng điểm đánh ác liệt của giặc Mỹ, đối diện với những hành động anh hùng từ những con người bình dị bên dòng sông hiền hòa, nhạc sĩ đã viết nên ca khúc. Năm 1979, đài phát thanh truyền hình Thanh Hóa đã lấy “Chào sông Mã anh hùng” làm nhạc hiệu trước mỗi buổi phát thanh; đài truyền thanh, truyền hình cứ mỗi sáng, cứ mỗi trưa, cứ mỗi chiều lại rộn vang giai điệu bài hát Cái khó riêng của học lịch sử đó là người học không thể tri giác trực tiếp, không thể “sờ” hay làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm mà buộc phải tư duy, phải trừu tượng hóa, khái quát hóa để dựng lại những gì đã diễn ra trong quá khứ. Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật có thể chia sẻ với chúng ta rất nhiều cảm xúc trong cuộc sống. Nó có sức ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi sử dụng các ca khúc cách mạng trong giảng dạy, nhất là giảng dạy Lịch sử sẽ góp phần tạo nên sự khách quan khi tìm hiểu sự kiện lịch sử, đồng thời phát triển các thái độ tình cảm phù hợp cho học sinh sau mỗi bài học. Các ca khúc cách mạng cũng chính là chứng nhân của lịch sử, là nguồn động viên, khích lệ tinh thần cho bộ đội ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. 2.3.6. Tự học trong Công tác công ích xã hội Việc làm này không chỉ có tác dụng củng cố, hiểu sâu hơn kiến thức, mà còn là biện pháp gắn nhà trường với xã hội, rèn luyện năng lực hành động cho học sinh. Thông qua tìm hiểu, sưu tầm các tư liệu lịch sử ở địa phương, tại các buổi công ích xã hội, ngoài việc giáo viên tập cho học sinh trình bày hiểu biết của mình qua các câu chuyện, hiện vật lịch sử, di tích lịch sử; giáo viên cần hướng dẫn các em có nững hành động thiết thực như chăm sóc bảo tồn các di tích lich sử bằng những việc làm nhỏ như dọn vệ sinh, chăm sóc, trồng thêm cây xanh ... 2.4. Hiệu quả của sáng kiến: Sau một thời gian áp dụng sáng kiến, năm học 2018-2019 chất lượng học tập của học sinh khối 9 đã được nâng lên rõ rệt. Học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức và có biểu tượng chính xác về sự kiện, hiện tượng lịch sử. Hầu hết các em đều hứng thú, yêu thích học môn Lịch Sử. * Kết quả năm học 2017-2018 cụ thể như sau: Lớp Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 9A 40 14 35.0 15 37.5 11 27.5 0 0 0 0 9B 38 7 18.4 12 31.6 19 50.0 0 0 0 0 Tổng 78 21 26.9 27 34.6 30 38.5 0 0 0 0 Bảng 2: Kết qủa năm học 2017-2018 * Kết quả mũi nhọn năm học 2018-2019: - Có 9/9 HS đạt giải cấp huyện, trong đó: 6 em đạt giải nhì, 3 em đạt giải 3 - Có 3 HS đều đạt giải 3 cấp Tỉnh. Đối chiếu bảng 1 với bảng 2, cho thấy việc áp dụng sáng kiến vào giảng dạy, kết quả năm học 2017-2018 có sự thay đổi rõ rệt: số lượng học sinh khá, giỏi tăng nhanh; Số học sinh kém không còn. Điều đó chứng tỏ việc sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học lịch sử là yêu cầu rất quan trọng, không thể thiếu đối với người giáo viên dạy Lịch sử. Chất lượng bộ môn được nâng cao rõ rệt, nhất là bộ môn Lịch sử 9. Đồng thời, mang lại sự hứng thú và lòng say mê học lịch sử của các em. 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận: Hướng dẫn, rèn luyện khả năng, thói quen tự học cho học sinh còn thể hiện việc tôn trọng nhân cách của các em, gây cho các em lòng tự tin, chống ỷ lại, lười biếng trong suy nghĩ và làm việc. Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã áp dụng vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với bộ môn và những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này, học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học hơn so với thực trạng hiện nay 3.2. Kiến nghị Để thực hiện phương pháp này một cách có hiêụ quả theo mục tiêu giáo dục bộ môn, tôi xin kiến nghị đề xuất một số vấn đề sau: * Cơ quan thiết bị trường học: - Cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hoá hoặc chân dung của các nhân vật lịch sử có công với cách mạng . - Nhà trường cần tạo điều kiện để học sinh có thể đi thực tế các di tích lịch sử ngay trên địa bàn của tỉnh * Đối với giáo viên: - Soạn bài, nghiên cứu kĩ bài giảng, lựa chọn kiến thức, dạy học bằng phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, hệ thống câu hỏi rõ ràng, chuẩn mực, lôgic. - Cần khen-chê kịp thời, bổ sung thiếu sót và cố gắng tìm ý đúng trong câu trả lời của học sinh để kích thích các em học tập, tổ chức cho học sinh làm việc độc lập, đàm thoại, trao đổi bài chéo, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà, chấm vở bài tập để kiểm tra việc học của học sinh. - Tổ chức tốt hoạt động học tập nhóm và cá nhân để thực hiện tốt việc tự học tập. - Tăng cường hoạt động chuyên môn theo nhóm, tổ, cụm và có sổ dự giờ, góp ý, rút kinh nghiệm. - Hướng dẫn, rèn luyện khả năng, thói quen tự học cho học sinh còn thể hiện việc tôn trọng nhân cách của các em, gây cho các em lòng tự tin, chống ỷ lại, lười biếng trong làm việc và suy nghĩ. - Hiện nay, chúng ta đã có nhiều điều kiện để mở rộng việc tự học của học sinh trong môn Lịch Sử. Cần thực hiện phương châm “Lấy học sinh làm trung tâm” chống việc học thụ động. *Đối với học sinh: - Có đầy đủ SGK, sách bài tập, vở bài tập. - Cần tự giác, tích cực, chủ động trong học tập. - Biết vận dụng sáng tạo kiến thức vào thực tế. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Nga Sơn, ngày 10 tháng 04 năm 2019 Tôi cam đoan đây là SKKN do tôi viết, không sao chép của người khác. NGƯỜI THỰC HIỆN Mai Thị Hiên TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 9 2. Sách giáo viên Lịch sử lớp 9 3. Tài liệu Lịch sử địa phương 4. Phương pháp dạy học lịch sử . Tác giả: Trịnh Đình Tùng 5.Bài thơ: Người đi tìm hình của nước. Tác giả: Chế Lan Viên 6. Ca khúc : Chào sông Mã anh hùng. Nhạc sĩ: Xuân Giao 7.Từ điển Thuật ngữ Lịch sử phổ thông - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_nang_cao_chat_luong.doc