Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp trong dạy học Lịch sử ở trường THCS
Trước những yêu cầu cao của thời đại mới, đòi hỏi ngành giáo dục phải đào tạo được những con người phát triển toàn diện, có đủ đức, đủ tài, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Ý thức được điều đó, ngành giáo dục đã và đang thực hiện công cuộc đổi mới trong cách dạy và học trong các trường phổ thông để đạt được mục tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Công cuộc đổi mới này diễn ra trên các phương diện: đổi mới về chương trình, sách giáo khoa, về phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, môn học, trong đó có bộ môn lịch sử ở trường THCS.
Trong Luật giáo dục sửa đổi năm 2010, điều 28.2, đã nêu rõ: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp trong dạy học Lịch sử ở trường THCS

ưa hấu; Sự tích Cổ Loa và chuyện Mị Châu- Trọng Thuỷ ... để nâng cao nhận thức, phát triển tư duy của học sinh về cội nguồn và quá trình phát triển của lịch sử dân tộc thời Văn Lang - Âu Lạc. Qua đó bồi dưỡng cho các em lòng tự hào, tự tôn dân tộc. + Ví dụ 3: Đối với tài liệu về địa lí, giáo viên có thể kết hợp sử dụng ở nhiều bài, đặc biệt ở lịch sử lớp 8,9 (khi học về quá trình phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở các châu lục ).....nhằm giới thiệu về vị trí địa lí, tài nguyên của các khu vực đó và là nguyên nhân dẫn tới thực dân phương Tây xâm lược châu Á, Phi, Mĩ la-tinh. Cụ thể ở bài 11 “Các nước Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX” (Tiết 16 – Lịch sử 8), giáo viên sử dụng lược đồ “phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ”, giáo viên giới thiệu về vị trí địa lí, tài nguyên của khu vực Đông Nam Á: Đông Nam Á là khu vực khá rộng, gồm nhiều nước trên lục địa và hải đảo, diện tích khoảng 4,5 triệu km2, có vị trí địa lí quan trọng, nằm trên đường hàng hải từ Tây sang Đông, nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là khu vực giàu tài nguyên (nông sản, khoáng sản). Cùng với đó là chế độ phong kiến ở các nước Đông Nam Á đang suy yếu, vào nửa sau thế kỷ XIX, Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây. Như vậy việc sử dụng tài liệu tham khảo (cả tài liệu lịch sử và tài liệu liên môn) đều có vai trò cực kì quan trọng trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên khi sử dụng tài liệu phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh, không chất đống sự kiện, đảm bảo hiệu quả giáo dục, tránh giáo điều máy móc. Mỗi loại tài liệu có vị trí và tác dụng nhất định, nếu được sử dụng đúng lúc, kết hợp đúng bài thì hiệu quả sư phạm của nó rất lớn. Mặt khác, giáo viên phải giải thích xuất xứ của tài liệu để học sinh có thể tìm tòi ở nhà, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của các em. 3. Phương pháp trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử. 3.1. Khái niệm. Trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử là công việc mà giáo viên nêu ra những câu hỏi (đã được chuẩn bị sẵn trong bài soạn) để gọi học sinh lần lượt trả lời. Đồng thời, các em tự đặt câu hỏi cho nhau, trao đổi với nhau trên cơ sở chỉ đạo dẫn dắt của giáo viên qua đó nhằm đạt được mục đích bài học. Tóm lại, trao đổi và đàm thoại là một trong nguyên tắc trong dạy học lịch sử mà người giáo viên nào cũng phải thực hiện ở trên lớp. 3.2.Thực trạng Trong quá trình dạy và học hiện nay đang nảy sinh một vấn đề cần phải khắc phục đó là: Một bộ phận giáo viên chưa đổi mới và vận dụng đúng phương pháp trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử. Đồng thời, một số lượng không ít học sinh không biết cách đặt câu hỏi tìm hiểu, trao đổi với nhau trong một bài học lịch sử. Từ đó, dẫn đến sự hạn chế về mặt nhận thức của học sinh trong bộ môn lịch sử. 3.3. Các hình thức trao đổi, đàm thoại. 3.3.1. Hình thức trao đổi tái hiện: Hình thức này nhằm gợi lại cho học sinh những kiến thức đã học để làm cơ sở tiếp nhận kiến thức mới, giúp cho học sinh có khả năng khái quát hoá, tổng hợp hoá các sự kiện lịch sử. Từ đó, làm cho quá trình nhận thức của học sinh được diễn ra liên tục, không bị gián đoạn. Hình thức này không chỉ giúp học sinh hiểu sâu kiến thức cũ mà còn làm cơ sở để hiểu thêm phương pháp, kiến thức, tri thức mới. Việc trao đổi tái hiện thường được tiến hành ở đầu giờ hoặc trong tiến trình của bài giảng cần nhắc lại kiến thức cũ, để nhận thức của học sinh được liên tục có hệ thống Ví dụ: Khi dạy bài : “Cuộc kháng chiến chống Tống (1075- 1077)” (Tiết 15 - Lịch sử 7) trước khi đi vào cụ thể diễn biến cuộc kháng chiến chống xâm lược Tống của nhà Lý, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi tái hiện như sau: trước nhà Lý, nhân dân ta đã phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Tống vào năm nào? Kết quả ra sao? Học sinh sẽ tái hiện lại phần kiến thức đã học và đưa ra câu trả lời đó là: cuộc kháng chiến chống Tống thời nhà Tiền Lê năm 981, kết quả ta giành thắng lợi.... Sau đó giáo viên dẫn dắt học sinh vào bài mới: sau thất bại năm 981, nhà Tống chưa từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Vậy nhà Tống xâm lược nước ta nhằm âm mưu gì? Cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới thời nhà Lý như thế nào? Kết quả ra sao? Nét độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường Kiệt là gì? Vậy để lí giải được vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu nội dung bài học hôm nay” Cuộc kháng.........Tống 1075- 1077” 3.3.2. Hình thức trao đổi, phân tích, khái quát hoá: - Hình thức này giúp học sinh tiếp thu kiến thức lịch sử mang tính lôgíc và hiểu được bản chất của sự kiện đó. Khi sử dụng hình thức này giáo viên giúp cho học sinh phân tích và đánh giá các sự kiện lịch sử. Câu hỏi mà giáo viên đưa ra trao đổi đàm thoại thường liên quan đến các sự kiện cơ bản, đòi hỏi học sinh phải vận dụng tổng hợp từ nhiều hiện tượng, sự kiện, để từ đó tìm ra bản chất của sự kiện. Ví dụ 1: Khi dạy bài: “Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX” (tiết 15- lịch sử 8). Khi kết thúc phần I. Trung Quốc bị các nước đế quốc chia xẻ - Học sinh quan sát hình 42 SGK, giáo viên đưa ra câu hỏi: Bức tranh các nước đế quốc xâu xé cái bánh ngọt Trung quốc nói lên điều gì? Và vì sao nhiều nước đế quốc lại xâu xé Trung Quốc như vậy? (Học sinh trả lời –bổ sung, giáo viên kết luận) Ví dụ 2: khi dạy bài 15 “Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ cách mạng (1917 -1921” ( tiết 22,23 – lịch sử 8). Khi kết thúc bài, giáo viên đưa ra câu hỏi : Vì sao ở nước Nga năm 1917 lại có hai cuộc cách mạng (Học sinh trao đổi nhóm trả lời) 3.3.3. Hình thức trao đổi tìm tòi, phát hiện. Giáo viên tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh khi giải quyết các vấn đề phức tạp. Trong hình thức này giúp cho học sinh huy động so sánh, đối chiếu các sự kiện lịch sử bằng suy đoán lôgíc và tự giải quyết các câu hỏi mà giáo viên đặt ra. - Hình thức này gồm có hệ thống các câu hỏi như giúp học sinh hiểu từng câu hỏi một có liên quan với nhau thành một vấn đề lớn, cơ bản. - Ví dụ: Khi dạy bài 16 : “Những hoạt động của Nguyễn ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 1919 -1925)”( Tiết 19 – Lịch sử 9), giáo viên có thể đặt các câu hỏi: Con đường đi tìm chân lý của Nguyễn Ái Quốc có gì độc đáo, khác với con đường truyền thống của lớp người đi trước? Tại sao Người chọn con đường sang phương Tây? Tác dụng của hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên Xô, Trung Quốc từ năm 1919 – 1925? Học sinh trả lời và rút ra được vấn đề cơ bản nhất: theo Người chân lí cách mạng không phải ở phương Đông mà ở phương Tây, nơi được mệnh danh có tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có nền khoa học kỹ thuật, có nền văn minh phát triển, Người nhận thức muốn đánh được Pháp thì phải hiểu Pháp... 3.3.4. Hình thức trao đổi ôn tập, củng cố: - Hình thức này thường được sử dụng trong các bài cuối chương cuối học kỳ để khái quát hoá những nội dung kiến thức đã học. - Hệ thống câu hỏi tập trung vào kiến thức của chương hay là cả một quá trình lịch sử. Ví dụ: Ở bài 14 - “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (từ giữa thế kỉ XVI đến năm 1917-Tiết 21 lịch sử 8) HS trả lời câu hỏi: Hãy nêu những nội dung của lịch sử thế giới cận đại? Nội dung nào là cơ bản nhất? Hãy chọn 5 sự kiện tiêu biểu của lịch sử thế giới cận đại? 3.3.5. Hình thức trao đổi kiểm tra. - Hình thức này giáo viên xem xét nhận biết của học sinh trong quá trình học tập. Đây là hình thức được tiến hành thường xuyên khi kiểm tra bài cũ hoặc xen vào nội dung của bài mới qua đó nắm được khả năng diễn đạt phân tích khái quát thực hành của học sinh. Ví dụ: Trước khi đi vào học nội dung bài 12 “Nhật Bản giữa thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX” (tiết 17 - lịch sử 8) GV đặt câu hỏi kiểm tra bài cũ: Tại sao cuối thế kỉ XIX Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của thực dân phương Tây? ( HS trả lời - bổ sung - GV kết luận). Sau đó GV đi vào bài với câu hỏi gợi mở để các em sẽ dần giải đáp trong nội dung bài học: Vì sao cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trong khi hầu hết các nước châu Á trở thành thuộc địa và phụ thuộc các nước phương Tây thì Nhật Bản vẫn giữ được độc lập và còn phát triển kinh tế nhanh chóng, trở thành nước đế quốc chủ nghĩa? - Với 5 hình thức trên phương pháp trao đổi, đàm thoại được thực hiện bằng cách giáo viên đưa ra câu hỏi sau đó gợi ý, dẫn dắt học sinh thực hiện. Nhưng phải tuân thủ nguyên tắc chung là câu hỏi đưa ra không được quá khó hoặc quá dễ và đáp ứng được yêu cầu sau: + Câu hỏi phải rõ ràng ngắn gọn, nêu được vấn đề cơ bản để học sinh hiểu đúng và sâu sắc, học sinh phải có các thao tác tư duy. + Câu hỏi phải mang tính chất bài học nhận thức, tạo cảm giác cho học sinh qua đó giúp học sinh đối chiếu giữa cái đã biết hoặc chưa biết để trả lời. ( Đây là loại câu hỏi phổ biến nhất) + Câu hỏi phải mang tính vừa sức với học sinh. Câu hỏi tìm tòi phát hiện chỉ nên đặt ra cho học sinh khối 8, 9 khi mà nhận thức của các em đã được nâng lên. Tuy nhiên giáo viên không được để cho học sinh chủ quan, thoả mãn với câu trả lời của mình. 3.4. Các câu hỏi thường dùng trong phương pháp trao đổi, đàm thoại. Để đảm bảo được 3 yêu cầu cơ bản trên đây giáo viên có thể xây dựng câu hỏi làm 5 loại sau: Câu hỏi nêu lên sự phát sinh, phát triển của những sự kiện, hiện tượng lịch sử điển hình. Loại câu hỏi này thường hỏi về nguyên nhân, diễn biến của cuộc khởi nghĩa, kháng chiến hoặc thái độ của một giai cấp nào đó. Ví dụ: Nêu nguyên nhân bùng nổ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở khu vực Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX? (tiết 16 – Lịch sử 8) Câu hỏi nêu lên bản chất, đặc trưng của các sự kiện lịch sử Ví dụ: Tại sao nói ĐCSVN ra đời (3.2.1930) là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam? (tiết 22 – Lịch sử 9) Câu hỏi nêu mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử điển hình. Ví dụ: Tại sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu lịch sử? Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong hội nghị thành lập Đảng như thế nào? (tiết 22 – Lịch sử 9) - Câu hỏi về việc sử dụng kiến thức đã học để tìm hiểu về các kiến thức lịch sử mới. Ví dụ: Vì sao nói cuộc Duy Tân Minh Trị (năm 1868) là một cuộc cách mạng tư sản? ?(tiết 17 – bài 12 – Lịch sử 8) - Câu hỏi mang tính chất bài tập nhận thức (loại câu hỏi này thường giao cho học sinh về nhà làm bài tập) Ví dụ: Lập bảng so sánh hai thái độ, hai kiểu hành động của nhân dân và triều đình Huế trước sự xâm lược của thực dân Pháp? (Lịch sử 8) Tóm lại: Trong các loại câu hỏi trên tuỳ thuộc vào từng yêu cầu của bài học mà giáo viên đặt ra câu hỏi cho phù hợp (Câu hỏi dùng trong phương pháp này chủ yếu xoay quanh vấn đề: Tại sao? Vì sao? Như thế nào?). Khi đặt câu hỏi giáo viên phải suy nghĩ kỹ, phải có sự chuẩn bị sẵn hệ thống câu hỏi trong bài soạn và phải có đáp án của câu hỏi đó, giáo viên phải hướng dẫn gợi ý để học sinh trả lời, có sự nhận xét đánh giá câu trả lời của các em và tiếp tục gọi em khác trả lời bổ sung để câu trả lời được hoàn chỉnh. 8. Những thông tin cần bảo mật: không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến Các em học sinh THCS đặc biệt khối 8,9; thiết bị dạy học, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách giáo khoa môn lịch sử 6,7,9; phân phối chương trình giảng dạy môn lịch sử, các tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học môn lịch sử có liên quan. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc có thể thu được do áp dụng chuyên đề theo ý kiến của tác giả Việc áp dụng một số PP phát triển khả năng nhận thức của HS, qua thực tế giảng dạy các em đã có tiến bộ rõ rệt, hoạt động học tập của các em đi vào nề nếp, chất lượng học sinh đại trà tăng lên: số HS yếu kém giảm, số HS từ trung bình cũng như khá giỏi tăng. Kết quả học tập của HS tăng có sự chuyển biến rõ rệt. Phần lớn các em đã biết sử dụng, biết khai thác nội dung kênh chữ, kênh hình trong SGK, biết trả lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra, nhiều em có khả năng sưu tầm tài liệu rất tốt. Tuy nhiên, so sánh thì thấy ở các lớp A hiệu quả cao hơn các lớp BC Với PP sáng tạo với BĐTD HS rất hào hứng nhưng đại đa phần là các em có học lực khá thể hiện tốt, còn các em yếu kém còn gặp nhiều khó khăn khi vẽ BĐTD. Như vậy, trên đây tôi vừa trình bày một số PP nhằm phát triển khả năng tư duy lịch sử của HS, nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử, mỗi PP có đặc trưng riêng nên người GV sử dụng như thế nào cho hiệu quả tùy thuộc vào điều kiện trường lớp, tùy từng đối tượng học sinh. Cùng với đó GV kết hợp đổi mới công nghệ thông tin chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao cho bộ môn lịch sử, nâng cao nhận thức lịch sử của HS, các em sẽ yêu quý bộ môn lịch sử. 11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử: STT Tên tổ chức/ cá nhân Địa chỉ Phạm vi/ Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Học sinh khối 8,9 Trường THCS Học sinh bậc THCS Như vậy: Với một số phương pháp phát triển khả năng nhận thức lịch sử của HS: phương pháp sử dụng SGK; phương pháp trao đổi đàm thoại; phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo và phương pháp sáng tạo với bản đồ tư duy trong dạy học lịch sử cùng với việc sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác như khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan, ứng dụng CNTT, dạy học tích hợp liên môn như hiện nay chắc chắn nếu GV sử dụng tốt, kết hợp linh hoạt các PP và phù hợp với từng nội dung kiến thức cụ thể sẽ đem lại kết quả cao. HS sẽ lĩnh hội tốt kiến thức, phát huy được năng lực nhận thức, năng lực tư duy, khả năng tích cực chủ động, sáng tạo của HS trong học tập. Từ đó có tác dụng giáo dục tư tưởng, đạo đức, phẩm chất, hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh. Hình thành cho các em lòng tự tin, ý chí quyết tâm trong học tập đồng thời hình thành cho học sinh lòng trung thực, tinh thần tập thể, ý thức giúp đỡ nhau trong học tập và trong cuộc sống. Trên đây là phần trình bày mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy tại trường Trung học cơ sở cũng như trong quá trình học tập, tham gia các chuyên đề thay sách giáo khoa của ngành giáo dục, tham gia các chuyên đề giảng dạy của đồng nghiệp các trường THCS trong huyện. Tuy nhiên để có được đề tài này, tôi đã tham khảo và tiếp thu ý kiến của đồng nghiệp cũng như dựa vào tài liệu sách giáo viên và sách giáo khoa, và một số tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học khác để rút ra kinh nghiệm riêng cho mình. Vì tuổi đời, tuổi nghề còn ít, còn thiếu kinh nghiệm nên tôi rất mong nhận đ ược sự đóng góp của đồng nghiệp, của tổ chuyên môn để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Thị Ngọc Liên, Trần Văn Tự, Phương pháp dạy học lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999 2. Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Lịch sử 6,7,8,9, SGK và SGV, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004, 2005 3. Thạc sĩ: Tạ Thị Thúy Anh, Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử 6,8,9 NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2011 4. Nguyễn Thị Côi (Chủ biên), Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử Trung học cơ sở (Phần lịch sử Việt Nam), NXB Giáo dục Việt Năm 2010 5. Trịnh Đình Tùng (Chủ biên), Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử THCS (Phần lịch sử thế giới), NXB Giáo dục, 2009 6. Trần Đình Châu (Chủ biên), Đổi mới phương pháp dạy học và sáng tạo với bản dồ tư duy, NXBGDVC Việt Nam, 2011
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_trong_day_hoc_lich.docx