Sáng kiến kinh nghiệm Một số ý kiến về việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch Sử Trường THPT

Môn lịch sử là một trong những môn quan trọng trong trường phổ thông, qua môn này học sinh hiểu biết vế quá khứ, cội nguồn của dân tộc, đất nước. Ngoài ra còn giáo dục cho học sinh ý thức trách nhiệm, gìn giữ, bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống, ý thức trách nhiệm với bản thân, quê hương, đất nước. Học sinh học lịch sử không phải là để biết quá khứ, hay để biết những câu chuyện đời xưa mà phải biết lấy “chuyện xưa răn đời nay”, “lịch sử là tấm gương soi”. Trong việc hội nhập với cộng đồng thế giới hiện nay chúng ta cần có ý thức hơn về dân tộc mình “khép lại quá khứ chứ không thể quên quá khứ”.

Thời gian gần đây qua trao đổi với các đồng chí đồng nghiệp cùng bộ môn chúng tôi nhận thấy học sinh muốn học được lịch sử, biết và hiểu lịch sử là rất khó, và từ những hiểu biết đơn giản để học giỏi lịch sử, và trở thành học sinh giỏi môn lịch sử lại càng khó hơn. Để thúc đẩy quá trình nhận thức và nâng cao trình độ nhận thức của học sinh để các em có được những năng lực cần thiết của một học sinh giỏi môn lịch sử việc phát hiện và bồi dưỡng là rất quan trọng với các trường trung học phổ thông trong toàn quốc đặc biệt đối với các Trường miền núi như Trung học phổ thông Võ Nhai lại càng quan trọng hơn.

doc 19 trang SKKN Lịch Sử 15/10/2025 90
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số ý kiến về việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch Sử Trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số ý kiến về việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch Sử Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm Một số ý kiến về việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch Sử Trường THPT
ắm được 2 nội dung cơ bản.( Phong trào trên toàn quốc và phong trào ở Nghệ Tĩnh)
 * Các chính sách của chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh ( kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội) . Từ đó rút ra bản chất của chính quyền.
 * Ý nghĩa của phong trào.
 Ví dụ : Để giúp học sinh xác định được kiến thức cơ bản của phong trào trên toàn quốc giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng thống kê theo mẫu trên cơ sở đó học sinh tự học, tự xác định kiến thức cơ bản với những nội dung tương tự.
Stt
Thời gian
Lực lượng 
Hình thức & mục tiêu đấu tranh
Quy mô & địa bàn đấu tranh
1
Tháng
 2
đến
 tháng
4
Công 
nhân

Bãi công đòi tăng lương giảm giờ l àm
Đồn điền cao su Phú Riềng, nhà máy sợi Nam Định, Diêm cưa Bến Thuỷ, Xưởng đóng tầu Ba Son
Nông
 dân
Đòi giảm sưu thuế
Thái Bình, Nam Hà,
Nghệ An, Hà Tĩnh..
2
Phong trào mạnh mẽ từ tháng 5. 1/5/1930 nhân ngày QTLĐ
Công nhân
 và nông dân đoàn kết giai cấp và quốc tế

Truyền đơn tố cáo kẻ thù, khẩu hiệu kêu gọi quần chúng đấu tranh, 
mít tinh, biểu tình
 tuần hành đòi bỏ sưu hoãn thuế
Khắp cả nước
3
Từ sau ngày 1.5.1930 làn sóng tiếp tục dâng cao
công nhân, nông dân, học sinh và dân nghèo thành thị
 
Công nhân có 16 cuộc đấu tranh.
 Nông dân có. 34 cuộc đấu tranh.
 Học sinh và dân nghèo thành thị có 4 cuộc đấu tranh
Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét chung : 
+ Học sinh phải đọc tiêu đề của bảng, đọc đề mục của các cột, nội dung tóm tắt của các cột.
+ Tìm ra mối liên hệ giữa các sự kiện, so sánh đối chiếu nội dung từng vấn đề thể hiện trong các cột, các hàng để rút ra nhận xét, kết luận.
 +Vận dụng các tri thức lịch sử đã có, kết hợp với kỹ năng phân tích các số liệu để tìm ra kiến thức mới. 
Với đề bài trên:
 + Sau khi học sinh đọc xong tiêu đề của bảng, đọc đề mục của các cột, học sinh so sánh đối chiếu các dữ kiện theo hàng ngang, cột dọc rút ra nhận xét.
 Nhận xét : Đây là phong trào cách mạng mới ở Việt Nam, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phong trào nổ ra đều khắp cả nước, rầm rộ, lôi cuốn nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động tham gia.
 Khi nắm vững được bản chất của sự kiện giáo viên cần hướng dẫn các em rút ra được quy luật của lịch sử như: Quy luật của một xã hội phong kiến, quy luật của các cuộc khởi nghĩa của nông dân, quy luật của sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản học sinh sẽ tìm ra được bài học lịch sử gắn liền với học tập và cuộc sống của các em.
 Từ đó học sinh có thể so sánh giữa sự kiện này với sự kiện khác, quốc gia này với quốc gia khác về kinh tế, chính trị, xã hội ...Giáo viên phải cung cấp đầy đủ những sự kiện trong lĩnh vực của đời sống loài người để cho các em nắm vững tính thống nhất và tác động qua lại giữa các lĩnh vực của đời sống loài người.
 Ví dụ: Trong chương trình lịch sử lớp 10 sau khi tìm hiểu chương II: Xã hội cổ đại, giáo viên có thể nêu vấn đề : « So sánh các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại phương Tây ( Địa Trung Hải) về quá trình hình thành, kinh tế, xã hội , chính trị ? »
 Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng Bản đồ các quốc gia cổ đại kết hợp kênh chữ trong sách giáo khoa để trả lời câu hỏi này.
 Để so sánh được : Học sinh chỉ ra sự giống nhau, còn sự khác nhau học sinh phải kẻ bảng gồm ba cột dọc ( 1. Đặc điểm so sánh, 2. Các quốc gia cổ đại phương Đông, 3. Các quốc gia cổ đại phương Tây). Sau đó so sánh từng đặc điểm để thấy rõ được sự khác nhau đó.
 * Thứ tư: Giáo viên phải hình thành cho học sinh các kỹ năng, kỹ xảo, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào thực tế.
 Ví dụ : Sau khi học xong bài 19 : Truyền thống và ý thức dân tộc (Lịch sử lớp 11) học sinh phải biết vận dụng vào thực tế bản thân phải tự trả lời các câu hỏi : Theo em làm thế nào để gìn giữ, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống ?Có nên giao lưu văn hoá không ? Là một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường em xác định trách nhiệm của bản thân như thế nào ? 
 Thứ năm: Giáo viên phải hình thành cho học sinh kỹ năng khai thác kênh hình trong sách giáo khoa, sách tham khảo, tư liệu đọc thêm, phải coi đó là mảng kiến thức, kỹ năng cần thiết để học lịch sử : Học sinh quan sát tranh ảnh trong tình huống có vấn đề, từ đó rèn luyện kỹ năng diễn đạt, phân tích, khái quát, lựa chọn ngôn ngữ, kích thích tư duy của học sinh.
 Ví dụ: Trong chương trình lịch sử lớp 10 nâng cao : Bài 42: Đóng góp của các dân tộc ít người vào sự nghiệp chung của đất nước. Giáo viên cho học sinh quan sát hình vẽ: “ Giã gạo” ( hình khắc trên trống đồng) và hình ảnh một số kiểu nhà sàn. Từ đó giáo viên đưa ra câu hỏi “ Em hãy nhận xét về cách ăn, ở của người Việt Cổ ?” 
 Qua quan sát tranh ảnh học sinh sẽ thấy được người Việt Cổ lúc bấy giờ họ đã tìm cách thích ứng hoà nhập với thiên nhiên, họ đã biết lợi dụng đến mức cao nhất những thuận lợi sẵn có trong tự nhiên, họ biết khắc phục đến mức thấp nhất những khó khăn của thiên nhiên ( trên các đồi núi cao họ đốt nương làm rẫy, ở các vùng thung lũng dồng bằng họ cấy trồng lúa nước, ở vùng sông suối hồ đầm họ bắt tôm cua tép, đi trên sông họ biết sử dụng thuyền độc mộc dùng xiên để bắt cá Đời sống của người Việt Cổ đạm bạc giản dị trong cách ăn ở mặc (ăn cơm nếp, tẻ , đi chân đất , ở nhà sàn). Từ đó học sinh có thể liên hệ với cuộc sống hiện nay đặc biệt là ở những vùng nông thôn Việt Nam
 Thứ sáu: Học ở trên lớp đã khó vậy làm thế nào để học sinh hứng thú học và có ý thức tự học. Trên thực tế giảng dạy nếu chỉ nếu chỉ bồi dưỡng học sinh qua hoạt động học trên lớp, kiểm tra đánh giá thôi chưa đủ tôi nhận thấy cần bồi dưỡng học sinh qua hoạt động tự học, hoạt động ngoại khoá của học sinh.
 Ví dụ : Trong quá trình giảng dạy tôi đã tổ chức hoạt động cho học sinh dưới nhiều hình thức khác nhau : Dưới sự hướng dẫn của giáo viên các em thi kể chuyện lịch sử, trò chơi lịch sử, hoặc sưu tầm tư liệu theo chủ đề : Sưu tầm tư liệu về chủ tịch Hồ Chí Minh theo từng chủ điểm : trong giai đoạn tìm đường cứu nước 1911 – 1920), kháng chiến chống Pháp, hoặc kháng chiến chống Mĩ
 Kết quả thu được : Đối với các lớp không thử nghiệm học sinh thụ động, trông chờ, ỷ lại, hoạt động nhóm không hiệu quả. Ngược lại đối với những lớp được thử nghiệm tôi nhận thấy các em hoạt động tích cực đặc biệt là các em có nhận thức khá giỏi : Đối với những yêu cầu làm việc trên lớp các em trao đổi thảo luận nhóm cử đại diện trình bày, có sự thi đua giữa các tổ nhóm. Đối với những vấn đề đòi hỏi có sự chuẩn bị công phu các em tìm tòi cập nhập thông tin, kiến thức lịch sử qua thông tin đại chúng, qua sách tham khảo, tài liệu tham khảo, thậm chí mạnh dạn đề nghị cô giáo cố vấn.Các em phân công thành viên trong nhóm, tổ chuẩn bị tư liệu và bố trí thời gian để trình bày kết quả ở giờ học chính khóa. 
 *Thứ bảy: Tổ chức hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu lịch sử, tài liệu văn học:
 Sử dụng tài liệu lịch sử : Giáo viên có thể giới thiệu địa chỉ để học sinh tìm đọc hoặc cung cấp cho học sinh một số tài liệu trích cuả các tác giả kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê Nin, các tác phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước ta....Giáo viên cần lưu ý học sinh khi sử dụng các tài liệu tham khảo cần dẫn :Tên tài liệu là gì ? Tài liệu đó của ai ? Của nhà xuất bản nào ? thời gian xuất bản ? Tư liệu trích dẫn thuộc trang nào ?
 Ví dụ: Khi trình bày về tội ác của chủ nghĩa đế quốc và nguyên nhân sâu xa của nó là chế độ phân biệt chủng tộc học sinh có thể dẫn trong Hồ Chí Minh.Tuyển tập.Tập 1, NXB S ự thật Hà Nội, 1980, trang 270. Người viết : “ Trong cơn sóng hận thù và đầy thú tính, những kẻ tham gia hành hình lôi người da đen đến một khu rừng hay quảng trường công cộng nào đó. họ trói người đó vào cây, tưới dầu lửa, lấy những chất dễ cháy phủ lên người đó. Trước khi châm lửa, họ bẻ từng chiếc răng rồi móc mắt. Từng nhúm tóc bị rứt khỏi đầu, mang theo từng mảng da, để lộ ra một sọ người đẫm máu. Nhiều miếng thịt nhỏ rời khỏi cái thân hình đã tím bầm vì bị đánh đập...”
 Giáo viên hướng dẫn học sinh tự đọc ở nhà để nắm nội dung chủ yếu của tài liệu ( kèm theo các câu hỏi hướng dẫn như: Những vấn đề cơ bản của tài liệu này là gì ? Nêu và phân tích các vấn đề của tài liệu có liên quan đến bài học... Khi trả lời được câu hỏi như vậy học sinh sẽ hiểu sâu hơn sách giáo khoa và tài liệu mà còn hình thành ở các em khả năng phân tích đánh giá, sử dụng tài liệu trong học tập lịch sử.
 Sử dụng tài liệu văn học: Không ít tác phẩm văn học tự nó là một tư liệu lịch sử ví như Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Tuyên Ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, hoặc tài liệu văn học dân gian... mỗi loại tài liệu văn học có ý nghĩa riêng. 
 Ví dụ : Khi đánh giá tình trạng rối ren của triều đình nhà Nguyễn sau khi Tự Đức chết ta có thể dẫn tài liệu dân gian: “ Một nhà sinh đặng ba vua
Vua sống,vua chết, vua thua chạy dài”
(Ba vua này là Đồng Khánh (sống), Kiến Phúc (chết), Hàm Nghi (chạy ra sơn phòng) đều là con của Kiến Thái Vương (một nhà). Cần phân tích rõ từ “thua” thuộc quan điểm của giai cấp nào...
c. Đối với các em học sinh được bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử cần phải có những yêu cầu sau:
 + Các em cần phải nắm vững kiến thức lịch sử ( lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới ). Học sinh học cấp III phải nắm vững kiến thức cấp II..
 + Biết đọc và khai thác những kiến thức ẩn tàng trên bản đồ, lược đồ, bảng thống kê, tranh ảnh.
 + Xác định được hoàn cảnh, điều kiện mối liên hệ giữa các sự kiện .Nêu được nguyên nhân phát sinh, thất bại, tính chất ý nghĩa bài học kinh nghiệm của sư kiện nhất là những sự kiện quan trọng. Làm sáng tỏ quy luật lịch sử.của bất cứ sự kiện nào (ví dụ: nguyên nhân thành công, thời cơ Cách mạng tháng Tám). Xác định vai trò, vị trí của các tầng lớp, giai cấp, tập đoàn hay các cá nhân trong lịch sử 
 + Biết liên hệ thực tế, địa phương, đất nước. So sánh đối chiếu tài liệu lịch sử với đời sống hiện nay từ đó rút ra bài học kinh nghiệm.
 + Để học sinh bước vào cuộc thi có hiệu quả ngoài việc nắm kiến thức cơ bản, học sinh cần phải đọc những kiến thức liên quan đến môn sử ( nhất là các tác phẩm văn học ) để bài làm thêm sinh động. Học sinh cần hệ thống hoá kiến thức cơ bản để ứng phó với các dạng đề đưa ra..
 + Biết tổng hợp, phân tích đánh giá, nhận xét kiến thức lịch sử có khả năng khái quát hoá cao thì học sinh mới đạt được ngưỡng của học sinh giỏi môn Sử.
d..Một trong những yếu tố cơ bản để học sinh đạt được kết quả trong các kỳ thi, tôi thấy vấn đề không thể thiếu được trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử là: Hướng dẫn cách làm bài lịch sử cho học sinh.
 Ví dụ: Hiểu đề bài : “Nội dung cơ bản của văn kiện được thông qua trong hội nghị thành lập Đảng 2/1930 ?” 
 Học sinh đọc kỹ đề và viết ra giấy nháp những cụm từ quan trọng : Nội dung cơ bản, văn kiện thành lập Đảng . Suy nghĩ với nội dung ấy, đề bài đòi hỏi giải quyết các vấn đề chủ yếu gì : Hoàn cảnh, điều kiện ra đời của văn kiện, vai trò của nhân vật lịch sử có liên quan ( Nguyễn Ái Quốc), và chủ yếu nội dung của văn kiện này ( kết hợp với phân tích , nêu ý nghĩa lịch sử, đánh giá ...)
 Xây dựng đề cương bài viết: Gồm mở bài, thân bài, kết luận.
 Phần mở đầu: Đặt vấn đề, giới thiệu ngắn gọn những điểm cần giải quyết. Với đề bài trển trong phần mở đầu chỉ cần viết: “Tại hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, nhiều văn kiện do Người soạn thảo được thông qua. Vậy nội dung ý nghĩa của tài liệu ấy, văn kiện ấy như thế nào? Đó là vấn đề cần giải quyết trong bài. 
 Phần thân bài: Phần chủ yếu quan trọng nhất của bài, tập trung trình bày các sự kiện, ý tưởng ... nhằm giải quyết vấn đề được đặt ra.Phần này gồm một số tiẻu mục tập trung vào một số khía cạnh vấn đề chung cần giải quyết. Với ví dụ trên thân bài có thể gồm các tiểu mục: 
a. Đôi nét về hoàn cảnh, điều kiện lịch sử ra đời của Đảng: Ngắn gọn không đi vào chi tiết, mà chủ yếu nêu rõ sự ra đời của Đảng là một tất yếu lịch sử.
 b. Nội dung cơ bản của văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và Hội nghị nhất trí thông qua.
 c. Phân tích giá trị ý nghĩa của tài liệu, văn kiện: Được xem như là cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
 Kết luận: Không tóm tắt những ý đã trình bày ở thân bài phải nêu các luận điểm, quan điểm chủ đạo làm rõ, khái quát vấn đề đặt ra (có liên hệ thực tế, rút ra bài học kinh nghiệm)
 4/ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRIỂN KHAI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Qua thực hiện và những kết quả đạt được tôi thấy nếu giáo viên vận dụng linh hoạt, có sự điều chỉnh bổ sung trong quá trình triển khai ứng dụng những kinh nghiệm trên rộng rãi vào quá trình giảng dạy sẽ giúp bài giảng thêm phong phú sinh động, rất hợp với thực tế. 
 Với việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sử có ý nghĩa hết sức sâu sắc
 Với học sinh: các em được mở mang kiến thức, phát triển tư duy.Phát huy tính độc lập sáng tạo của học sinh, tránh học nhồi nhét, học tủ, học vẹt, học đối phó.Qua đó tạo niềm say mê hứng thú học tập bộ môn, kích thích lòng ham học hỏi ở học sinh để hiểu biết nhiều hơn về quê hương đất nước... Học sinh không chỉ hiểu, biết, mà nhận thức lịch sử một cách sâu sắc, từ đó việc học - học giỏi - và trở thành học sinh giỏi môn Sử sẽ có nhiều triển vọng
 Với giáo viên: Giáo viên được phát huy mọi khả năng của mình làm giáo viên yêu nghề hơn, tự tin hơn, có tinh thần trách nhiệm cao để năng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Kết quả của trò là niềm vui, niềm động viên của giáo viên. Vì vậy trong quá trình dạy giáo viên rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân.
IV. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ: 
 1. Kết luận trong quá trình nghiên cứu: Trong những năm qua Trường THPT Võ Nhai đã có nhiều chuyển biến trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn sử. Qua các thế hệ học trò cho thấy số lượng học sinh giỏi bộ môn tăng lên so với trước, chất lượng ôn luyện cũng được nâng lên với những kết quả cụ thể : Có nhiều em đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh ở các khối lớp. Bản thân tôi đã áp dụng thử nghiệm các phương pháp thực hiện nói trên ở một số lớp và thu được kết quả khả quan.
 2. Kiến nghị, đề nghị : Đối với học sinh miền núi như trường THPT Võ Nhai việc bồi dưỡng môn lịch sử cho các em mặc dù đã được Nhà trường quan tâm, các gặp không ít khó khăn, và chưa phải là nhìn thấy ngay hiệu quả cao, bởi vì nhiều nguyên nhân : Như điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, thiếu tài liệu tham khảo, thăm quan thực tế còn ít... Song việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn lịch sử đối với học sinh miền núi là cần thiết vì vậy tôi xin mạnh dạn đề nghị một số ý kiến sau:
 * Nhà trường cũng như Sở GD-ĐT quan tâm hơn nữa đến vấn đề dạy và học môn Lịch Sử như :
 + Tài liệu, đồ dùng trực quan và các phương tiện dạy và học bộ môn Lịch Sử ...
 + Tổ chức học sinh đi tham quan thực tế để mở mang kiến thức. Nhân rộng các hình thức hoạt động ngoại khóa 
 + Thành lập đội tuyển học sinh giỏi bộ môn Sử ngay từ đầu cấp học, và tổ chức ôn xen kẽ 2 buổi trên tuần .
 + Thay cách học nhồi nhét các kiến thức khô cứng trên sách vở bằng Panô, apphích về các danh nhân lịch sử, kiến thức lịch sử kích thích trí tò mò ham tìm hiểu của học sinh, hoặc tổ chức các trò chơi lịch sử .
 *Đối với giáo viên bộ môn luôn gần gũi giúp đỡ động viên học sinh yêu thích bộ môn Lịch sử 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_y_kien_ve_viec_phat_hien_va_boi.doc