Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cấp THCS

Lịch sử cũng như tất cả các môn học khác có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó tác động đến con người không chỉ về trí tuệ mà cả về tư tưởng, tình cảm. Các môn học cả tự nhiên và xã hội ngoài việc trang bị cung cấp vốn kiến thức cơ bản còn góp phần giáo dục xây dựng con người phát triển hoàn thiện về đức – trí – thể - mĩ ở những mức độ khác nhau.

Nếu học văn học giúp học sinh thấy cái hay, cái đẹp trong thơ ca, học địa lí thấy được sự giàu đẹp của quê hương đất nước để càng yêu quí thêm con người, quê hương đất nước Việt Nam thì thông qua học lịch sử các em không chỉ thấy được quá trình phát triển của một đất nước của một dân tộc mà rộng hơn là cả xã hội loài người đồng thời nó còn góp phần quan trọng trong việc hình thành bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Như vậy so với các môn học khác thì lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng tình cảm đối với thế hệ trẻ, những kiến thức lịch sử không chỉ đơn thuần dạy cho các em biết yêu, ghét trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao động, trân trọng cái đẹp mà còn góp phần định hình cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong trong cuộc sống bởi “ bắt nguồn từ một sự thực là trong khoa học lịch sử có những yếu tố nghệ thuật” ( N.A.Erophuy)

doc 21 trang SKKN Lịch Sử 25/04/2025 30
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cấp THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cấp THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cấp THCS
 về các diễn biến chiến dịch lịch sử hoặc một phong trào cách mạng thì bản đồ chính là công cụ thể hiện không gian diễn biến các sự kiện lịch sử. Như vậy thông qua học bản đồ lịch sử học sinh có dịp củng cố lại kiến thức địa lí qua các địa điểm, địa danh nơi diễn ra các sự kiện, điều này sẽ góp phần hạn chế tình trạng học sinh không phân biệt được vị trí hoặc phương hướng địa điểm, địa danh đó thuộc khu vực nào trên đất nước ta.
VD: Chẳng hạn khi dạy bài 29 Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những biến chuyển về kinh tế xã hội ở Việt Nam ( Lịch sử lớp 8) ở mục 1. Tổ chức bộ máy nhà nước tôi sử dụng lược đồ hành chính Việt Nam và đặt câu hỏi:
 Bằng kiến thức địa lí hãy cho biết thực dân Pháp phân chia các đơn vị hành chính nước ta thời bấy giờ như thế nào? Mục đích ?
 để cho học sinh xác định sự phân chia đơn vị hành chính nước ta thời thuộc Pháp ở ba kì với các chế độ cai trị khác nhau và mục đích cai trị của chúng. 
Ở Mục II. 2 Đô thị phát triển, sự xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới tôi đặt câu hỏi: Hãy cho biết sự xuất hiện các đô thị ở Việt Nam qua lược đồ? 
học sinh sẽ xác định trên lược đồ và từ đó sẽ rút ra được nhận xét hàng loạt các đô thị được hình thành trong giai đoạn này.
 Như vậy việc vận dụng kiến thức địa lí thông qua lược đồ trong dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh củng cố được kiến thức địa lí vừa giúp nắm vững kiến thức lịch sử.
Hoặc khi dạy bài 30 Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918 mục II. 3 Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi dùng bản đồ hành trình cứu nước để học sinh nắm được những chặng đường mà Nguyễn Tất Thành đã đi qua, để nhấn mạnh những gian lao vất vả của Người khi bôn ba ở nước ngoài tôi đã trích dẫn đoạn thơ sau:
“Có nhớ chăng gió rét thành Ba lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya
Đời bồi tàu lênh đênh theo song bể
Người đi hỏi khắp bóngcờ Châu Mĩ, Châu Phi
Những đất tự do những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi”
( trích Bài Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)
VD: Khi dạy bài Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc ( 1953 – 1954) mục II. Cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953 -1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954
Tôi đặt câu hỏi: Mục tiêu và phương hướng chiến lược của ta là gì? 
Qua nghiên cứu bài hãy xác định những hướng tấn công chính của ta trên lược đồ? 
Như vậy thông qua việc học sinh xác định vị trí các hướng tấn công của ta trong chiến cuộc đông xuân 1953 – 1954 trên lược đồ cũng là dịp để các em củng cố lại kiến thức địa lí của mình.
Khi dạy mục 2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954 tôi yêu cầu học sinh nghiên cứu lược đồ xác định vị trí của cứ điểm Điện Biên Phủ và đặt câu hỏi:
Phân tích vị trí chiến lược của cứ điểm Điện Biên Phủ? Dựa vào đâu mà Pháp & Mĩ cho rằng Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm?
Để trả lời được câu hỏi này buộc học sinh phải vận dụng những hiểu biết của mình về kiến thức địa lí để phân tích được vị trí chiến lược trọng yếu của Điện Biên Phủ và thấy được lí do vì sao mà Pháp phải hai lần đổ quân xuống để giữ cứ điểm này.
Cũng trong bài này sau khi khái quát về kết quả của chiến dịch tôi đã trích dẫn thơ của Tố Hữu:
“ 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm,mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
.Nghe trưa nay tháng 5 mùng 7
Trên đầu bay thác lửa hờn căm
Trông bốn mặt lũy hầm sụp đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực đỏ trời đất Điện Biên toàn thắng.
 ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Không những chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm hiểu nguyên nhân thắng lợi cuộc kháng chiến hào hung của dân tộc.Tôi nhận thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được, điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần yêu nước, sự cảm phục đối với sự cống hiến hy sinh của các thế hệ đi trước cũng như góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương đất nước trong nhận thức của các em.
Cũng bằng phương pháp trên tôi áp dụng trong bài 19 Khởi nghĩa Lam Sơn mục III.2 Trận Chi Lăng – Xương Giang ( Lịch sử lớp 7) khi giảng diễn biến trận Chi Lăng - Xương Giang thông qua lược đồ tôi trích dẫn đoạn thơ mô tả khí thế tiến công của quân ta và sự đại bại của quân địch:
“ Ngày 18 trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28 thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
..... Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước
Bị ta chặn đánh ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ
khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm quân Mộc Thạnh xéo lên nhau
 chạy để thoát thân”
( Bình Ngô Đại Cáo – Nguyễn Trãi)
Sau đó khi kiểm tra lại tôi thấy không những các em có thể ghi nhớ chính xác các sự kiện trong bài đã học mà còn biết kết hượp mô tả và tường thuật lại diễn biến của trận chiến, giờ học trôi đi trong không khí rất sôi nổi thoải mái đầy hào hứng. Các em tỏ ra thích thú với các sự kiện trong bài và có thái độ rõ ràng khi giáo viên nêu lên những dẫn chứng tiêu biểu. Qua đó tôi thấy rằng sử dụng lồng ghép kiến thức địa lí, văn học trong giảng dạy lịch sử không những giúp các em nắm được nội dung bài mau chóng, nhớ lâu hơn mà còn góp phần củng cố thêm vốn kiến thức văn học, địa lí tạo điều kiện cho học sinh hình thành phương pháp liên hệ kiến thức trong quá trình học tập của mình.
Không những chỉ gần gũi trong nội dung kiến thức giữa lịch sử và văn học còn có nhiều điểm tương đồng về phương pháp như so sánh, miêu tả, liên tưởng.nhất là trong các dạng bài những thành tựu về Văn học, nghệ thuật. Tuy nhiên đối với dạng bài này thì có khó khăn là học sinh thường nắm được vấn đề qua văn học nên tỏ ra thờ ơ. Làm sao kéo học sinh vào không khí lịch sử và chỉ cho các em thấy được sự khác biệt giữa kiến thức văn học và kiến thức lịch sử? Bằng cách sử dụng câu hỏi liên hệ phần nào đã khắc phục được tình trạng trên
VD: Khi dạy phần Văn học, khoa học, nghệ thuật ( Bài 20 Nước Đại Việt thời Lê sơ 1428 – 1527) ta có thể đặt câu hỏi vận dụng như sau: 
Bằng kiến thức văn học hãy kể tên những tác phẩm văn học, tác giả nổi tiếng thời Lê sơ mà em biết? Nội dung tư tưởng chủ yếu trong văn học thời kì này là gì?
Học sinh dựa vào kiến thức môn văn để trả lời sau đó giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi để học sinh thấy được có những lĩnh vực không được đề cập đến trong văn học như kinh tế, tư tưởng, tôn giáo từ đó nhận ra sự đa dạng và phong phú trong kiến thức lịch sử.
 Hoặc liên hệ về kiến thức địa lí ta có thể đặt câu hỏi: 
Kể tên những thành tựu tiêu biểu về địa lí học thời Lê sơ?
Về nghệ thuật ta có thể sử dụng một số tranh ảnh của bộ môn mĩ thuật về những thành tựu nghệ thuật thời Lê sơ để minh họa cho học sinh thấy được sự phát triển rực rõ của nghệ thuật kiến trức và điêu khắc giai đoạn này.
Dạy bài Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 1919 -1925 ( Lịch sử lớp 9) vận dụng phương pháp mô tả, liên tưởng tôi trích dẫn đoạn thơ sau:
“ Luận cương đến Bác Hồ và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ LêNin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
Cơm áo là đây, hạnh phúc đây rồi
Hình của Đảng lồng trong hình của nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”
( trích Bài Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)
 nhằm nhấn mạnh sự xúc động và sự thay đổi trong tư tưởng hành động của Nguyễn Ái Quốc khi tiếp xúc với Bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của LêNin để từ đó Bác đã lựa chọn cho mình một con đường đi đúng cho dân tộc Việt Nam con đường “ Cách mạng vô sản”.
Hay khi dạy bài Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất (Lịch sử lớp 9) khi phân tích đặc điểm, thái độ chính trị của giai cấp nông dân Việt Nam bị bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn ta có thể đặt câu hỏi liên hệ: 
Người con trai của Lão Hạc đi đâu? (Tác phẩm Lão Hạc ngữ văn 9) học sinh sẽ liên hệ ngay người con trai của Lão Hạc đi làm phu đồn điền, từ đó giáo viên dẫn dắt cho học sinh thấy được nguồn gốc của giai cấp công nhân chính là xuất phát từ những người nông dân bị bần cùng hóa phải bán sức lao động trong các nhà máy, xí nghiệp trở thành một giai cấp mới ra đời ngay trước chiến tranh qua đó phản ánh rõ bộ mặt tàn bạo của thực dân, phong kiến với chính sách bóc lột sưu thuế đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng.
Vận dụng phương pháp so sánh miêu tả trong bài Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 mục II.2 Tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ( Lịch sử lớp 9) tôi nhấn mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa đang lan rộng khắp các địa phương trong toàn quốc bằng một đoạn trích: 
“ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay”
Học sinh rất chăm chú lắng nghe, khi được gọi lên nhận xét các em đã khái quát được không khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện mình đang học bằng hình ảnh đồng thời còn giúp các em thấy và có những đánh giá đúng về vai trò của quần chúng nhân dân – những người làm nên lịch sử - là động lực chính đưa cách mạng đi đến thành công rực rỡ,củng cố nhận thức trong tư tưởng đối với các em.
Nhìn chung có rất nhiều cách thức vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy lịch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một trích đoạn để minh họa cho những sự kiện đang học hoặc cụ thể hóa sự kiện nhằm nêu lên một kết luận khái quát giúp các em hiểu vấn đề sâu sắc hơn. Hoặc có thể sử dụng tranh ảnh tư liệu nhằm tạo biểu tượng cụ thể về vấn đề mình tiếp thu, cũng có thể giáo viên chỉ cần liên hệ qua một câu hỏi ( có thể ở đầu bài, giữa bài, cuối bài) để tạo tính liên hệ kiến thức gây hứng thú cho học sinh.Chẳng hạn khi dạy bài “ Phong trào kháng chiến chống Pháp trong những năm cuối thế kỉ XIX” ( Lịch sử lớp 8) mở đầu chúng ta có thể đặt câu hỏi: 
Trong văn học các em thấy có tác phẩm nào đề cập đến bối cảnh đất nước giai đoạn cuối thế kỉ XIX?
Bắt từ ý trả lời của học sinh chúng ta sẽ khái quát tình hình đất nước trên cơ sở các kiến thức lịch sử. Giáo viên có thể trực tiếp nêu ra vấn đề hoặc chỉ liên hệ mang tính chất gợi mở nhằm kích thích tư duy của các em hoạt động.
c. Điều kiện thực hiện các giải pháp, biện pháp:
Để nâng cao hiệu quả sử dụng lồng ghép kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử thì người giáo viên phải có sự lựa chọn vận dụng một cách khéo léo linh hoạt, lựa chọn các chi tiết sao cho phù hợp với mục đích yêu cầu của bài giảng và tính chất của từng sự kiện, hiện tượng lịch sử. Việc kết hợp kiến thức địa lí, kiến thức lịch sử với ngôn ngữ văn học để xây dựng nên một bức tranh sinh động về những sự kiện,những nhân vật của thời đại trong những bối cảnh xã hội cụ thể phải đảm bảo được hai yếu tố cơ bản: giá trị giáo dục - giáo dưỡng và phù hợp với trình độ nhận thức của các em. Sử dụng một chi tiết dù nhỏ ví dụ như một câu thơ, một đoạn văn ngắn đúng lúc đúng chỗ thì nó sẽ trở thành chất xúc tác trong việc khơi dậy hứng thú say mê học tập của các em. Tuy nhiên giáo viên cũng không nên quá lạm dụng bởi khi đó sẽ biến giờ học sử thành giờ học văn hoặc địa như vậy sẽ xa rời mục đích cũng như đặc trưng riêng của bộ môn.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
e. Kết quả khảo nghiệm - giá trị khoa học của các vấn đề nghiên cứu
 Khảo sát ba lớp 9A1, 9A2, 9A3 trường THCS Lê Văn Tám qua năm học: 
*Kết quả khi chưa vận dụng kiến thức liên môn - Năm học 2013 - 2014
Lớp
Tổng số HS
Trên 5 điểm
Dưới 5 điểm
9A1
40
32
8
9A2
38
28
10
9A3
36
24
12
 Kết quả khảo nghiệm cho thấy điểm số của học sinh tương đối thấp khi chưa thực hiện vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học từ thực tiễn trên việc nghiên cứu tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử là rất cần thiết. 
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. 
*Kết quả khi giảng dạy vận dụng kiến thức liên môn 
Học kì 1 - Năm học 2014 – 2015
Lớp
Tổng số HS
Trên 5 điểm
Dưới 5 điểm
9A1
38
38
0
9A2
29
26
3
9A3
28
26
2
 Như vậy có thể thấy được việc vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử một cách hợp lí đã góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, tỉ lệ học sinh trên trung bình của bộ môn đã được nâng lên năm sau cao hơn năm trước và điều quan trọng nhất là tôi nhận thấy sự chuyển biến tích cực trong thái độ học tập của các em.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
 III.1. Kết luận.
Việc vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử nhằm tạo cho học sinh nguồn cảm hứng, sự ham muốn tìm tòi khám phá để tìm hiểu xem người xưa đã làm được điều đó như thế nào, tại sao?.. vừa có tác dụng củng cố kiến thức về sự phát triển của xã hội loài người vừa góp phần hình thành thế giới quan khoa học cho các em trong việc nhìn nhận đánh giá những vấn đề của quá khứ đặt ra, cách giải quyết những vấn đề trong hiện tại. 
Việc lồng ghép kiến thức các môn học khác trong giảng dạy lịch sử sẽ tạo nên sự gắn kết kiến thức, mang lại những gợi cảm mới tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của các em đem lại hiệu quả tích hợp giáo dục sâu sắc. Đó cũng 
là nền tảng để học sinh vận dụng trong quá trình học tập để giải quyết các tình huống mà thực tiễn cuộc sống đặt ra phát triển được năng lực tự lập trở thành người công dân có ích cho xã hội, đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục trong thời kì hội nhập. 
Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử dù thực hiện dưới hình thức nào đều nhằm đáp ứng được yêu cầu mục tiêu của môn học là trang bị những kiến thức đầy đủ về lịch sử như F. Enghen đã từng khẳng định: “ Đối với chúng ta lịch sử là tất cả, lịch sử được chúng ta đánh giá cao hơn bất kì thứ gì khác bởi lịch sử chính là cuộc sống do con người xây dựng nên trong lao động và trong đấu tranh giai cấp.Nhìn trong lịch sử ta thấy gương mặt của quá khứ, hình ảnh của hiện tại và hướng đi của tương lai” 
III.2. Kiến nghị
 Nhìn về lâu dài, chúng ta cần thực hiện những biện pháp đồng bộ từ việc xác lập đúng đắn vai trò, vị trí của môn lịch sử đến việc quan tâm đào tạo cũng như chăm lo tốt hơn đời sống của những giáo viên dạy lịch sử cũng như đội ngũ giáo viên nói chung. Đồng thời đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học môn lịch sử. Trước mắt, cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của môn lịch sử cả trong nhà trường cũng như xã hội. 
 Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ rút ra được từ trong quá trình vận dụng vào giảng dạy của bản thân cho nên đề tài này chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Kính mong quý đồng nghiệp đóng góp ý kiến để bản thân học hỏi rút kinh nghiệm
 Krông Ana, ngày 10 tháng 02 năm 2015
 NGƯỜI VIẾT
 Đỗ Thị Hải Yến
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 - Sách giáo khoa lịch sử lớp 7,8,9.
Tài liệu : “Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Lịch sử THCS”
 Một số tác phẩm văn học cách mạng
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SKKN
CẤP CƠ SỞ:
...........
 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
CẤP HUYỆN:
................
 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_kinh_nghiem_van_dung_kien_thuc.doc