Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kỹ năng sử dụng kênh hình ở bài 19, 21, 23, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1918), (SGK lớp 11, chương trình cơ bản), đối với lớp 11A1 trường THPT Quan Sơn 2

Trong định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng đã nêu rõ: “Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục và đào tạo” [1]. Đó là những định hướng hết sức đúng đắn đối với sự nghiệp giáo dục của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [2]. Do vậy, việc quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo đối với một quốc gia là hết sức cần thiết. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm độc lập đầu tiên của nước VNDCCH, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ân cần dặn dò thế hệ trẻ Việt Nam: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang với các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần lới công học tập của các cháu” [2].

Cùng với các chính sách về sự phát triể kinh tế, các chính sách về giáo dục của Đảng và Nhà nước cũng luôn được đưa ra kịp thời, đặc biệt là trong các nghị quyết trung ương Đảng. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm, chăm lo đến sự nghiệp giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Trình độ dân trí của nước ta tuy có phát triển, nhất là mấy năm gần đây, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp. Chính vì vậy, bên cạnh sự nỗ lực, phấn đấu của Đảng và Nhà nước đối với việc nâng cao dân trí. đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng có liên quan và đặc biệt phải có sự đồng tình ủng hộ của toàn dân.

doc 20 trang SKKN Lịch Sử 05/10/2025 120
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kỹ năng sử dụng kênh hình ở bài 19, 21, 23, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1918), (SGK lớp 11, chương trình cơ bản), đối với lớp 11A1 trường THPT Quan Sơn 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kỹ năng sử dụng kênh hình ở bài 19, 21, 23, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1918), (SGK lớp 11, chương trình cơ bản), đối với lớp 11A1 trường THPT Quan Sơn 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kỹ năng sử dụng kênh hình ở bài 19, 21, 23, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1918), (SGK lớp 11, chương trình cơ bản), đối với lớp 11A1 trường THPT Quan Sơn 2
ao tổn... Ở căn cứ Trại Sơn - Hai Sông, lúc đầu nghĩa quân buộc phải rút khỏi căn cứ, sau đó dần dần trở về trà trộn vào trong dân để chuẩn bị cho những trận đánh sau này.
Trong suốt năm 1886, tình hình trở nên yên tĩnh, không có trận càn nào của Pháp đáng kể. Sang năm 1887, Pháp có tiến hành một số trận càn vào Kẻ Sặt, Bình Giang (Hải Dương) nhưng đôi bên đều không bị thiệt hại nhiều.
Năm 1888, Pháp lại huy động một lực lượng quân rất lớn thêm cả lực lượng quân ngụy do Hoàng Cao Khải chỉ huy mở một đợt càn quét lớn vào ba tỉnh: Hưng Yên, Hải Dương và Bắc Ninh. Trong đợt càn quét này, Pháp đã tập trung dồn lực lượng tấn công vào tỉnh Hưng Yên, đặc biệt là vùng căn cứ chính Bãi Sậy ở huyện Khoái Châu, Văn Giang, Yên Mĩ, Mĩ Hào. Kết quả, cuộc càn quét này đã gây cho nghĩa quân những tổn thất nghiêm trọng.
Năm 1889, Pháp dồn lực lượng tấn công quyết liệt vào căn cứ Hai Sông - Trại Sơn. Sau một tháng chiến đấu quyết liệt, nghĩa quân tuy đã gây cho Pháp nhiều thiệt hại, nhưng viện binh Pháp ngày càng nhiều, chúng xiết chặt bao vây và tấn công quyết liệt, lực lượng nghĩa quân suy giảm dần, cuối cùng Đốc Tít phải ra hàng. Từ đó, nghĩa quân tan rã dần, chủ tướng là Nguyễn Thiện Thuật phải chạy sang Trung Quốc tìm Tôn Thất Thuyết. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại 
 4. Hình: Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế
* Hướng dẫn học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ và đặt câu hỏi: Miêu tả căn cứ khởi nghĩa Yên Thế theo lược đồ? Tường thuật cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế chống các cuộc tấn công của quân Pháp, giai đoạn 1884 - 1892?
* Học sinh trả lời, giáo viên kết luận: 
Miêu tả căn cứ khởi nghĩa Yên Thế theo lược đồ:
Trong phong trào vũ trang chống Pháp ở Bắc Kì cuối thế kỉ XIX, bên cạnh những cuộc khởi nghĩa do văn thân, sĩ phu lãnh đạo, còn có các cuộc đấu tranh vũ trang tự phát của nông dân mà tiêu biểu là Phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) với thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám, đại bản doanh của nghĩa quân Yên Thế đóng ở Phồn Xương.
Căn cứ Yên Thế ở miền Tây Bắc Bắc Giang, là một vùng có địa thế hiểm trở, núi rừng rậm rạp, nhưng giao thông thuận lợi. Từ Yên Thế có thể thông sang Thái Nguyên, Tam Đảo và tỏa về miền trung du Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh.
Phía Bắc Yên Thế là những dãy núi hiểm trở như một bức tường thành kiên cố, nhưng lại vừa có cảnh quan thơ mộng. Phía đông Yên Thế là con sông Thương giống như một đường ranh giới tự nhiên. Phía tây bắc Yên Thế tiếp giáp với những khu rừng rậm rạp của tỉnh Thái Nguyên. Phía Tây là những miền đất quang đãng, điểm đây đó một vài ngọn đồi và những cánh rừng thưa thớt. Phía nam giáp các huyện khác của Bắc Giang.
Địa hình Yên Thế là vùng đất cao, nhiều đồi và cây rừng rậm rạp; lối đi là những đường mòn, quanh co lúc ẩn lúc hiện. Địa hình rừng núi như thế đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho nghĩa quân chiến đấu. Quân Pháp đã phải thừa nhận rằng: Đó là nơi lí tưởng để đánh phục kích chống lại quân đội chúng ta. Quân của Thám có thể kéo ta vào một nơi rất rậm rạp, có những đường hào xung quanh đầy chướng ngại vật, rồi bất ngờ tấn công chúng ta, nhưng cũng biến rất nhanh mà không để lại một dấu vết nào.
Tường thuật cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế chống các cuộc tấn công của quân Pháp, giai đoạn 1884 - 1892:
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế được chia làm 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1884 - 1892, nghĩa quân còn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự phối hợp và chỉ huy thống nhất. Căn cứ Hố Chuối bị quân Pháp tấn công 4 lần, cuối cùng nghĩa quân rút khỏi căn cứ.
Giai đoạn 1893 - 1897, nghĩa quân 2 lần đình chiến với Pháp, xây dựng lại căn cứ Hố Chuối và mở rộng hoạt động ra các vùng của Bắc Ninh, Bắc Giang.
Giai đoạn 1898 - 1908, nghĩa quân đã xây dựng căn cứ Phồn Xương vững mạnh. Nghĩa quân vừa sản xuất, tự túc lương ăn, vừa tăng cường sắm sửa vũ khí, luyện tập và lập thêm nhiều đồn khác, như đồn Tú Lệ.
Giai đoạn 1909 - 1913, quân Pháp tập trung lực lượng tấn công căn cứ Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ vừa chuyển dần sang các vùng lân cận.
Dựa vào địa hình hiểm trở của Yên Thế, Hoàng Hoa Thám đã chỉ huy nghĩa quân chống lại nhiều cuộc tấn công của quân Pháp. Trong đó, có một số trận tiêu biểu chống lại 4 đợt tấn công của quân Pháp trong giai đoạn 1884 - 1892 như sau:
Cuộc tấn công lần thứ nhất bắt đầu ngày 8 - 12 - 1890. Địch đưa một lực lượng gồm 77 lính lê dương, 66 lính khố đỏ tấn công Hố Chuối. Mặc dầu có đại bác 80 li yểm hộ, địch vẫn không chống nổi sự phản kích dữ dội của nghĩa quân. Cuối cùng chúng phải tháo chạy về Nhã Nam.
Bốn ngày sau, chúng tổ chức cuộc tấn công thứ hai với lực lượng gồm 300 quân. Nhưng dưới sự chỉ huy của Đề Thám, nghĩa quân chiến đấu gan dạ, đã bẻ gãy cuộc tấn công của địch. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt một ngày, đến tối, quân Pháp phải tháo chạy về Nhã Nam.
Sau 10 ngày chuẩn bị, ngày 22 - 12, địch tấn công lần thứ ba với lực lượng gấp đôi lần trước (589 quân). Cuối cùng, địch vẫn phải thu quân chạy về Nhã Nam. Từ đó chúng khiếp sợ, gọi cho nghĩa quân của Đề Thám là “Tiểu đoàn bất khả xâm phạm”, “Tiểu đoàn anh dũng”. Đồng thời, địch cũng quyết tiêu diệt bằng được căn cứ Hố Chuối, tiếp tục tổ chức cuộc tấn công mới.
Cuộc tấn công lần thứ tư (3 - 1 - 1891) có quy mô lớn hơn. Số quân đông tới 1000 tên, chưa kể phu khuân vác, có đại bác yểm trợ. Cuộc chiến diễn ra trong 6 ngày. Quân ta chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt nhiều địch. Song trước ưu thế về lực lượng của địch, nghĩa quân không cố thủ mà rút lui để bảo toàn lực lượng. Khi địch hùng hổ tiến vào căn cứ, chỉ thấy một đồn trống rỗng.
 2.3.2.3. Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914)
 Hình 1. Phan Bội Châu (1867 - 1940)
* Hướng dẫn học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh Phan Bội Châu và đặt câu hỏi: Qua tìm hiểu tài liệu và bức tranh em hãy trình bày cuộc đời và hoạt động yêu nước của Phan Bội Châu?
* Học sinh trả lời, giáo viên kết luận: 
Phan Bội Châu sinh ngày 1 - 12 - 1867, tại làng Đan Nhiễm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phan Bội Châu có tên là Phan Văn San, sau đổi là Phan Bội Châu, hiệu Sào Nam và nhiều biệt hiệu khác: Hải Thu, Thị Hán, Độc Tĩnh Tử, Hãn Mạn Tử... Ông nổi tiếng thông minh từ nhỏ, năm 1900, đỗ Giải nguyên trường thi Nghệ An, nhiệt tình yêu nước. Ngay từ năm 17 tuổi, Phan Bội Châu đã hưởng ứng phong trào Cần vương, ông viết bài hịch Bình Tây thu Bắc rồi cùng bạn là Trần Văn Lương thành lập đội “Sĩ tử Cần vương” ở quê nhà.
Từ sau khi đỗ Giải nguyên, ông càng dốc tâm trí lo việc cứu nước, giao kết với chí sĩ khắp nơi. Năm 1904 vận động thành lập hội Duy tân, năm sau cùng Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc, rồi Nhật Bản gây dựng phong trào Đông du. Năm 1908, bị trục xuất khỏi Nhật, ông trở lại Trung Quốc rồi sang Xiêm (nay là Thái Lan) xây dựng căn cứ hoạt động ở nước ngoài.
Sau Cách mạng Tân Hợi (1911) ông trở lại Trung Quốc thành lập “Hội Việt Nam Quang Phục” và Hội “Chấn Hoa Hưng Á”.
Ngày 24 – 12 – 1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam ở nhà tù Quảng Đông. Cách mạng Việt Nam trải qua những ngày khó khăn [3]. 
Đến năm 1925 ông bị tay sai Pháp bắt cóc tại Thượng Hải, giải về nước. Chúng định thủ tiêu kín, nhưng việc bại lộ phải đưa ra xét xử trước Hội đồng đề hình của chúng, kết án khổ sai chung thân. Nhân dân toàn quốc đấu tranh đòi ân xá cho ông. Toàn quyền Va-ren (Varenne) buộc ra lệnh ân xá nhưng bắt ông an trí tại Huế (Bến Ngự). Từ đấy ông không còn hoạt động chính trị gì được nữa, chỉ còn niềm an ủi được nhân dân vẫn hướng lòng tôn kính với biệt danh “Ông già Bến Ngự”.
Ngày 29 - 10 - 1940 ông mất tại lều tranh Bến Ngự Huế, thọ 73 tuổi.
 2. Hình: Phan Châu Trinh (1872 - 1926)
* Hướng dẫn học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh Phan Châu Trinh và đặt câu hỏi: Qua tìm hiểu tài liệu và bức tranh em hãy trình nêu nhận xét (cách để tóc, cổ áo, đôi mắt, khuân mặt...) và nêu khái quát cuộc đời và hoạt động yêu nước của Phan Châu Trinh?
* Học sinh trả lời, giáo viên kết luận: 
Quan sát bức chân dung Phan Châu Trinh, chúng ta nhận thấy đầu tóc cắt ngắn, áo cổ thấp, theo kiểu áo dài của sĩ phu Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng đã được cải tiến. Qua đó có thể thấy rõ một biểu hiện của xu hướng canh tân đất nước, học hỏi bên ngoài của Phan Châu Trinh. Ông có đôi mắt sáng, hơi sâu, khuôn mặt rắn rỏi, thể hiện quyết tâm đấu tranh cứu nước.
Ông sinh ngày 9 - 9 - 1782 tại Quảng Nam. Là con trai thứ ba của ông Phan Văn Bình và bà Lê Thị Chung. Năm 1881, ông bắt đầu đi học. Năm 1894 và 1897 đi thi nhưng đều không đạt. Năm 1900 đỗ Cử nhân cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu nhưng ông không ra làm quan. 1901 dạy học ở nhà sau khi đỗ Phó bảng. 
Năm 1911, chính quyền thực dân đưa ông sang Pháp. Suốt những năm tháng sống ở Pari Phan Châu Trinh vẫn theo đường lối cải cách, kêu gọi thực hiện cải cách dân quyền, cải thiện dân sinh [3]. 
Tháng 5 - 1925 về nước, ông mất ngày 24 - 3 - 1926.
Lòng yêu nước của Phan Châu Trinh được thể hiện dưới nhiều hình thức, với nhiều mức độ khác nhau. Trước hết, đó là lòng yêu nước thương dân, đau xót cho giống nòi điêu linh, bực bội vì sĩ phu mê muội, quan lại bất tài, triều đình thối nát. Ông bất bình vì nhân dân bị chà đạp bởi bọn quan lại phong kiến. Lòng yêu nước của ông còn bộc lộ ở tình cảm hồn nhiên đẹp đẽ, trong sáng đối với quê cha, đất tổ. Các tác phẩm văn thơ của ông rất phong phú: thơ ca, quốc âm, tác phẩm chính luận chữ Hán, các bài báo, thư tín, bài diễn thuyết.
Phan Châu Trinh là người khởi xướng và lãnh tụ của phong trào Duy tân vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ông để lại dấu ấn không chỉ trên quê hương Quảng Nam mà trở thành niềm tự hào của dân tộc ta. Mặc dù ông chưa nhìn thấy rõ kẻ thù của dân tộc ta cho nên ông chủ trương dựa vào Pháp để canh tân đất nước. Nhưng chính hoạt động giáo dục lòng yêu nước trong nhân dân của ông đã có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào đấu tranh chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908.
Phan Châu Trinh là một trong những nhân vật lịch sử vĩ đại về tâm huyết và nhân cách, về tầm nhìn và cách xử lý những vấn đề chủ yếu của dân tộc và trong sáng tạo nghệ thuật thơ văn. Cuộc đời ông, sự nghiệp ông là biểu tượng của lòng yêu nước nhiệt thành, tư tưởng canh tân đất nước.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
2.4.1. Chất lượng giảng dạy và giáo dục của bản thân không ngừng nâng lên.
2.4.2. Giúp đồng nghiệp có thêm tài liệu và kinh nghiệm khai thác, sử dụng kênh hình trong các bài 19, 21, 23 chương trình 11, ban cơ bản.
2.4.3. Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của nhà trường.
2.4.4. Chất lượng nhận thức của học sinh nâng lên rõ nét:
Năm học 2017 – 2018 tôi trực tiếp giảng dạy lớp 11A1 và 11A2. Lớp 11A1 tôi khai thác kênh hình như trên và có kết quả cao hơn lớp.
Kết quả học sinh vận dụng kiến thức, khắc sâu sự kiện, rèn luyện kỹ năng thực hành [5]: 
Lớp
Kết quả
Học sinh vận dụng kiến thức %
Học sinh khắc sâu sự kiện %
Học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành %
11A1
87
89
92
11A2
23
26
32

Kết quả học lực bộ môn [6]:
Lớp
Tổng số học sinh
Học lực
Giỏi
Khá
T.Bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11A1
36
5
13,9
26
72,2
4
11,1
1
2,8
0
0
11A2
35
0
0
12
34,3
13
37,1
7
20,0
3
8,6

Kết quả về khẳ năng trình bày kênh hình [5]:
Lớp
Tổng số học sinh
khẳ năng trình bày
Số lượng
Tỷ lệ
Ghi chú
11A1
36
Biết trình bày tốt
21/36
58,3

Biết trình bày
15/36
41,7

Không biết trình bày
0/36
00

11A2
35
Biết trình bày tốt
5/35
14,3

Biết trình bày
22/35
62,8

Không biết trình bày
8/35
22,9


 Học sinh có cảm hứng hơn khi học bài, và các em đã có sự chủ động hơn trong các hoạt động học tập.
Phát huy khả tư duy lôgíc cho các em.
Kích thích sự tò mò, suy ngẫm, hăng say phát biểu ý kiến của các em.
Tạo không khí hứng khởi, sôi nổi trong tiết học.
Rèn luyện kỹ năng quan sát, mô tả, bình luậncho các em.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
“Dạy tốt” và “học tốt” luôn là mục tiêu đề ra cho ngành giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục phổ thông, là cơ sở vững chắc cho sự phát triển con người mới XHCN. Đồng thời cũng là nguồn dự trữ để tuyển chọn, đào tạo con người và đội ngũ cần thiết cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
Trên đây, là một vài kỹ năng sử dụng kênh hình ở bài 19, 21, 23, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1918), (SGK lớp 11, chương trình cơ bản), để tạo biểu tượng dạy học cho học sinh lớp 11A1 trường THPT Quan Sơn 2. 
Qua quá trình giảng dạy tôi đã tổng kết những kinh nghiệm như sau:
Khi dạy học nếu chỉ chú ý khai thác kênh chữ mà coi nhẹ việc khai thác kênh hình thì hiệu quả không cao. Tiết học trầm lắng, học sinh không hào hứng học tập, nhiều em không nhớ kỹ, hiểu sâu kiến thức lịch sử nên không phát huy tính tích cực, tự giác, tu duy của các em
Qua những câu hỏi đàm thoại gợi mở, tôi đã tạo được sự gần gũi, thân thiện giữa giáo viên và học sinh.
Bài học nhẹ nhàng, như những câu chuyện lịch sử lôi cuốn, thu hút học sinh tránh được những tiết học khô khan, nhàm chán, không khí buổi học sôi nổi, hiệu quả.
Qua thực nghiệm, việc ứng dụng đề tài vào năm học 2018 – 2019 cho toàn học sinh khối 11 sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Đế tài sẽ được phát triển mở rộng phạm vi nghiên cứu.
2. Kiến nghị:
2.1. Đề xuất với trường:
Nhà trường cần tạo điều kiện để năm học tới nhóm Lịch sử 
Nhà trường chỉ đạo Đoàn trường tổ chức các chương trình ngoại khóa tái hiện lịch sử dân tộc xuyên suốt chiều dài dựng nước và giữ nước (tập ).
2.2. Đề xuất với Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá:
Cần tổ chức lồng ghép các đợt tập huấn về kỹ năng khai thác kênh hình trong môn Lịch sử cho giáo viên./.
 Quan Sơn, ngày 20 tháng 05 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG TÔI CAM ĐOAN KHÔNG COPPY
 Tạ Quốc Việt Nguyễn Văn Cương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam – 80 năm xây dựng và phát triển (nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Hà nội 2010).
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, H.2002 
[3]. Sách giáo khoa Lịch sử 11 ban cơ bản. 
[4]. Nguồn: Mã Giang Lân, Tục ngữ và ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999 (tái bản lần thứ 5).
[5]. Thông qua kết quả kiểm tra miệng, các bài kiểm tra viết (trắc nghiệm kết hợp với tự luận).
[6]. Báo cáo kết quả bộ môn Lịch sử lớp 11A1, 11A2 năm học 2017 – 2018 trong nguồn vnedu.vn. 
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT 
Họ và tên tác giả: Nguyễn Văn Cương.
Chức vụ và đơn vị công tác: Thư ký Hội đồng, trường THPT Quan Sơn 2.
Đề tài nghiên cứu khoa học, Sáng kiến kinh nghiệm:
Tên đề tài
Sáng kiến
Năm cấp
 Xếp loại
Số, ngày, tháng, năm của quyết định công nhận, cơ quan ban hành QĐ
Một số kinh nghiệm khi khai thác kênh hình SGk Lịch sử 11
2010
C

 Quyết định số 904/QĐ-SGD&ĐT, ngày 14 tháng 12 năm 2010 của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo.

Một số biện pháp trong công tác giáo dục đạo đức học sinh lớp 10A2 trường THPT Quan Sơn 2
2012
C
 Quyết định số 871/QĐ-SGD&ĐT, ngày 18 tháng 12 năm 2012 của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo.

Một số biện pháp tổ chức hoạt đông NGLL tại trường THPT Quan Sơn 2
2013
C
 Quyết định số 743/QĐ-SGD&ĐT, ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo.

Khái quát khu di tích lịch sử Lam Kinh - Thanh Hóa
2015
C
Quyết định số 988/QĐ-SGD&ĐT ngày 03/11/2015

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_ky_nang_su_dung_kenh_hinh_o_ba.doc