Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy – học Lịch sử lớp 5 bằng cách sử dụng bản đồ tư duy
Trên thực tế nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Đây là môn học yêu cầu người học là phải “Biết sự kiện - Hiểu sự kiện – Nhớ sự kiện”, từ đó có sự phân tích, tư duy lôgic, khái quát, và đánh giá sự kiện. Bên cạnh đó các đồ dùng dạy học truyền thống hiện nay còn có nhiều hạn chế, chưa thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu phân môn và yêu cầu của quá trình đổi mới phương pháp dạy học phân môn lịch sử. Trong việc khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động thì phương tiện trực quan là một yếu tố hết sức cần thiết. Do đó, bên cạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy thì việc sử dụng kết hợp với Bản đồ tư duy trong dạy và học là phương pháp tối ưu nhằm phát huy tính tích cực và khả năng tư duy của học sinh.
Trước thực tiễn đó, với sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã mạnh dạn trình bày các biện pháp sử dụng Bản đồ tư duy vào việc nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn Lịch sử trong nhà trường Tiểu học. Với mong muốn việc sử dụng Bản đồ tư duy được mở rộng trong nhà trường và trong toàn ngành, đó là lý do tôi chọn đề tài:
Nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử lớp 5 bằng cách sử dụng Bản đồ tư duy ở trường Tiểu học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy – học Lịch sử lớp 5 bằng cách sử dụng bản đồ tư duy

theo nội dung yêu cầu. 6.2.2 Sử dụng bản đồ tư duy trong phần dạy kiến thức mới: Nếu theo hình thức cuốn chiếu, giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ theo từng phần của nội dung bài học. Một bài học có thể vẽ vài BĐTD khác nhau. Nếu theo hình thức mảnh ghép: Có thể cho mỗi nhóm vẽ một phần nội dung của bài học rồi tổng hợp lại thành nội dung bài học lớn. VD mỗi cá nhân hoàn thành 1 nhánh trong các nhánh: Chuẩn bị, diễn biến, kết quả-ý nghĩa sau đó nhóm trưởng tập hợp lại thành một Bản đồ hoàn chỉnh. Ví dụ: Khi dạy về Chiến thắng Điện Biên Phủ, HS đọc sách giáo khoa, thảo luận nhóm theo gợi ý tìm hiểu của giáo viên theo 3 nhánh: Chuẩn bị của ta, diễn biến của chiến dịch, kết quả ý nghĩa. Đại diện các nhóm lên trình bày, có thể trình bày bằng Bản đồ tư duy như sau: 6.2.3 Sử dụng Bản đồ tư duy trong phần củng cố kiến thức bài học. Hoạt động củng cố, thực hành là một hoạt động vô cùng quan trọng trong việc củng cố và khắc sâu kiến thức trọng tâm của bài học. Tuy nhiên, thời gian dành cho hoạt động củng cố là rất ít, chỉ khoảng từ 3 - 5 phút. Vì vậy, khi thiết kế trò chơi bằng BĐTD để củng cố bài, giáo viên có thể thiết kế bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua việc phối kết hợp nhịp nhàng giữa thầy và trò để đảm bảo về thời gian cũng như kiến thức trọng tâm cần củng cố. Có thể cho học sinh vẽ BĐTD để tổng hợp, củng cố kiến thức từng phần hoặc cả bài. Hoặc cũng có thể tổ chức trò chơi hình thành BĐTD theo hệ thống câu hỏi gợi mở. Các hoạt động trong bài ôn tập: có thể cho học sinh vẽ BĐTD để ôn tập từng sự kiện hay cả một giai đoạn lịch sử. Ví dụ : Bài Thu - đông 1947, Việt Bắc “Mồ chôn giặc Pháp”. Sau khi học sinh hoạt động nhóm, tìm hiểu và hoạt động cơ bản về Chiến thắng Việt Bắc (1947) xong, giáo viên tổ chức cho cá nhân hoặc nhóm nhỏ dựa vào nội dung sách giáo khoa và lược đồ để hoàn thành Bản đồ, có thể như sau: 6.2.4 Sử dụng Bản đồ tư duy trong phần hướng dẫn học sinh học ở nhà: Vì ở nhà học sinh có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên yêu cầu mà giáo viên giao cho học sinh chuẩn bị trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép (trình độ học sinh, thời gian, kinh tế).Yêu cầu với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin) qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu của học sinh. VD : Sau bài học Thu - đông 1947, Việt Bắc “Mồ chôn giặc Pháp”, GV yêu cầu học sinh về nhà thực hiện hoạt động ứng dụng bằng việc nghiên cứu sách giáo khoa, tra cứu tài liệu để hoàn thành Bản đồ tư duy về Chiến dịch Biên giới 1950. Sản phẩm của các em sẽ trưng bày ở góc học tập của lớp. Bản đồ đó được hoàn thiện đầy đủ như sau: 6.3. Các bước học tập của HS bằng Bản đồ tư duy khi dạy Lịch sử lớp 5 Sau khi giúp học sinh nắm vững được phương cách xây dựng BĐTD và quy trình tự xây dựng BĐTD trong học tập, giáo viên có thể thiết kế cho học sinh các bước học tập trên lớp với BĐTD trong phân môn Lịch sử như sau: Bước 1: Lập Bản đồ tư duy Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của giáo viên: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa, hoặc quan sát hình ảnh, tìm hiểu thông tin, từ đó nêu tình huống có vấn đề (liên quan đến chủ đề chính). Gợi mở, hướng dẫn học sinh đặt tên cho chủ đề cần tìm hiểu; gợi ý, định hướng để học sinh vẽ tiếp các nhánh chính cấp 1, cấp 2, ... ; học sinh hoàn thiện BĐTD. Bước 2: Báo cáo kết quả Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết trình về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Bước 3:Học sinh thảo luận, bổ sung kết quả: Học sinh cả lớp thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Bước 4: Giáo viên nhận xét, chuẩn xác kiến thức Giáo viên cho lớp củng cố kiến thức vừa tìm hiểu bằng một BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về phần nội dung kiến thức đó. 6.4. Cách sử dụng Bản đồ tư duy trong tiết ôn tập. Sau mỗi phần, mỗi giai đoạn Lịch sử, giáo viên cần phải tổng kết ôn tập, hệ thống hóa kiến thức cho học sinh trước khi các em làm phiếu kiểm tra, bài tập kiểm tra cuối kì, cuối năm.Với thế mạnh của Bản đồ tư duy là kiến thức được hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối, là sự diễn tả mạch logic kiến thức hoặc các mối quan hệ nhân - quả hay quan hệ tương đương, cộng thêm màu sắc của cả đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức sẽ giúp học sinh nhìn thấy “Bức tranh tổng thể” cả một phần kiến thức đã học. Có nhiều cách xây dựng Bản đồ tư duy trong tiết Ôn tập, củng cố như sau : Thông thường giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập để học sinh chuẩn bị ở nhà. Trong tiết ôn tập, củng cố, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập BĐTD, sau đó cho học sinh trao đổi kết quả với nhau và sau cùng đối chiếu với BĐTD do giáo viên lập ra. Từng em có thể bổ sung hay sửa lại BĐTD của mình và coi đó là tài liệu ôn tập của mình. Cách khác: Giáo viên lập BĐTD mở. Trong giờ ôn tập, củng cố, giáo viên chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu, hoặc thừa thông tin trong tiết học đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ sung, thêm hoặc bớt thông tin, để cuối cùng toàn lớp lập được một BĐTD ôn tập, củng cố kiến thức chương đó tương đối hoàn chỉnh và hợp lý. Cách làm này sẽ lôi cuốn được sự tham gia của học sinh (suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn, tranh luận nhiều hơn) và giờ ôn tập, tổng kết chương sẽ không tẻ nhạt và có chất lượng hơn. Bên cạnh đó còn có cách khác như chia nhóm và từng nhóm lập BĐTD. Sau đó các nhóm lên trình bày BĐTD của nhóm, các nhóm khác nhận xét về các mặt như sau: + Nội dung cơ bản kiến thức trong chương đã đủ chưa? Còn sót kiến thức nào không? + Cách trình bày đã hợp lý chưa? Vị trí các thông tin như thế nào? + Cấu trúc của BĐTD đã hợp lý chưa + Màu sắc đã hợp lý chưa? Đã làm nổi bật nội dung cơ bản chưa? + Nhìn tổng thể có hợp lý không, có hấp dẫn được người học không? Với cách lập BĐTD như trên, chắc chắn giờ ôn tập, củng cố kiến thức sẽ mang lại hiệu quả cao. 7. Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến. Có thể nói sau khi ứng dụng Bản đồ tư duy vào các tiết học trong dạy học Lịch sử đã mang lại hiệu quả thiết thực như: Giúp học sinh nắm được bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học. Mặt khác, dạy học bằng Bản đồ tư duy giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh. Học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém. Tiết học đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều so với cách dạy truyền thống hoặc một tiết dạy chỉ sử dụng công nghệ thông tin. Để nắm bắt được hiệu quả sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học Lịch sử với các giải pháp nêu trên tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát sau 15 tuần thực nghiệm hai lớp do tôi trực tiếp giảng dạy (lớp 5E là lớp tiến hành dạy thực nghiệm bằng bản đồ tư duy; lớp 5G là lớp đối chứng), kết quả đạt được như sau: Lớp Số HS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Thái độ với môn học SL % SL % SL % Thích Không thích Lớp 5E 34 34 100 0 0 0 0 34 0 Lớp 5G 37 31 83.8 6 16.2 0 0 21 16 Qua kiểm tra chất lượng và thái độ của học sinh hai lớp đối với phân môn Lịch sử tôi thấy : Lớp đối chứng giáo viên dạy bằng các phương pháp truyền thống thì số lượng học sinh hoàn thành tốt có tăng nhưng không đáng kể. Thái độ học tập môn Lịch sử thì các em còn ngại, sợ học Lịch sử và rất lo lắng khi chuẩn bị làm bài kiểm tra. Lớp 5 do tôi trực tiếp giảng dạy có sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học chất lượng làm bài rất khả quan, nhiều bài đạt hoàn thành tốt, không còn học sinh nào hoàn thành. Điều đáng nói là hầu hết các em đều rất thích, hào hứng khi học Lịch sử vì các em không còn lo lắng việc học thuộc ghi nhớ trong sách giáo khoa nữa. Các em luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng để vẽ Bản đồ tư duy, có nhiều sản phẩm đẹp, sáng tạo chứa đầy đủ kiến thức trọng tâm của các bài Lịch sử được trưng bày trong góc học tập của lớp, các em rất sẵn sàng, thoải mái khi được giao bài kiểm tra. Qua kết quả đạt được đó cho thấy rằng các em học sinh lớp 5 do tôi giảng dạy đã yêu thích bộ môn lịch sử, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của lịch sử và thành thạo trong việc lập và sử dụng Bản đồ tư duy trong học tập Lịch sử. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học cho thấy, sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức và hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên Bản đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc). Bản đồ tư duy - một công cụ có tính hữu ích cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế Bản đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm BĐTD. Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho giáo viên, học sinh sử dụng, bằng cách vào trang google.com.vn hoặc download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ “Mindmap”, ta có thể tải về phần mềm này không hạn chế số ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản. Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng bộ môn, thực hiện được chủ trương của ngành là không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. BĐTD là công cụ tổ chức tư duy, giúp con người làm việc khoa học, sáng tạo. Như vậy BĐTD là kĩ thuật dạy học nhằm tổ chức và phát triển tư duy, giúp người học truyền tải thông tin vào bộ não một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và hiệu quả, cụ thể là : + Ghi chép một cách logic, mạch lạc . + Trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ do nó được thể hiện bởi màu sắc, liên kết, liên hệ giữa các ý của vấn đề. + Nhìn thấy "bức tranh" tổng thể mà lại chi tiết . + Dễ dạy, dễ học, dễ nhớ . + Kích thích hứng thú học tập của học sinh. + Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức . + Giúp hệ thống hóa kiến thức. + Giúp ôn tập kiến thức. + Giúp ghi nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức . 2. Khuyến nghị 2.1. Giáo viên: + Sớm tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà giáo dục về phương pháp dạy học mới vào chương trình giảng dạy ở các môn. + Cần có quan niệm đúng đắn về vai trò và vị trí của việc dạy Lịch sử trong giai đoạn hiện nay. + Nắm được đặc trưng của phân môn, sử dụng linh hoạt, phù hợp và có hiệu quả các phương pháp trong tiết dạy. + Nắm được mục đích, yêu cầu, kiến thức, kỹ năng cơ bản của tiết dạy. + Nắm được hoàn cảnh, tâm lý, lực học của từng học sinh và chuẩn bị tốt đồ dùng cho tiết dạy. + Phải thường xuyên tổ chức dạy học theo phương pháp sử dụng BĐTD để phát triển hết khả năng sáng tạo, thẩm mỹ, khả năng tư duy của học sinh. + Bản thân mỗi giáo viên không ngừng nâng cao tay nghề về chuyên môn nghiệp vụ mà cả về sự sáng tạo, nghệ thuật hội họa. + Cần phải hướng dẫn kỹ cho học sinh chuẩn bị nội dung bài học ở nhà thông qua BĐTD, sau đó kiểm tra sự chuẩn bị của các em và quan tâm các nhóm, tuyên dương, động viên những nhóm học sinh làm tốt nhiệm vụ mà giáo viên giao để khuyến khích các em phát huy tạo niềm say mê cho các em yêu thích môn học. + Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng Bản đồ tư duy và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. Giáo viên cần có sự linh hoạt trong sử dụng Bản đồ tư duy đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. 2.2. Học sinh: + Qua tìm hiểu tâm lý học sinh tiểu học, hầu hết các em yêu thích học Lịch sử, đặc biệt là những bài về sự kiện và nhân vật Lịch sử. Đây là dấu hiệu tốt. Song, các em cần có ý thức học hỏi một cách nghiêm túc. + Luôn có niềm đam mê, sự hứng thú học tập bộ môn lịch sử. + Thường xuyên chuẩn bị bài ở nhà theo yêu cầu của giáo viên. + Lúc nào cũng có sẵn giấy A4, bút chì, bút màu, tẩy, bảng phụ trong cặp. + Phải rèn luyện sự sáng tạo, óc tư duy của mình trong cách học BĐTD. 2.3. Nhà trường: - Khuyến khích giáo viên trong trường áp dụng và trình bày những sáng kiến mới trong phương pháp dạy học Lịch sử . - Tổ chức các chuyên đề để giáo viên học hỏi và rút kinh nghiêm về phương pháp dạy học. 3. Lời cảm ơn Trên đây là một số giải pháp về sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học lịch sử lớp 5. Những giải pháp này đã được tôi đúc kết kinh nghiệm từ quá trình trực tiếp đứng lớp giảng dạy cho học sinh, được công tác trong một môi trường làm việc nghiêm túc, chuyên nghiệp và cụ thể là trên thực tế kết quả học sinh của lớp mình, Tôi chắc rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được sự trao đổi, đóng góp của đồng nghiệp, các cấp quản lí để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn và được áp dụng rộng rãi trong trường Tiểu học đạt hiệu quả cao nhất. Tôi xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1 TÓM TẮT SÁNG KIẾN 2 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến 2 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến 2 3. Nội dung sáng kiến. 4 4. Khẳng định kết quả, giá trị đạt được của sáng kiến. 4 5. Đề xuất kiến nghị để áp dụng và mở rộng sáng kiến 4 III. MÔ TẢ SÁNG KIẾN 5 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến. 5 2. Cơ sở lí luận. 7 3. Cơ sở thực tiễn. 10 4. Thực trạng của vấn đề 11 5. Phương pháp tiến hành 13 6. Các giải pháp 15 6.1.Những bước chuẩn bị để sử dụng BĐTD 15 6.2.Cách sử dụng BĐTD trong các hoạt động dạy học ở lớp 18 6.3.Các bước học tập của học sinh bằng BĐTD 21 6.4.Cách sử dụng BĐTD trong tiết ôn tập 23 7. Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến 24 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 26 1. Kết luận 26 2. Khuyến nghị 28 3. Lời cảm ơn 30 MỤC LỤC 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO. 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách ”Dạy tốt – học tốt các môn học bằng bản đồ tư duy”, tác giả Trần Đình Châu – Đặng Thị Thu Thủy, NXB Giáo dục Việt Nam 2011. 2. Sách “Bản đồ tư duy trong công việc”, tác giả Tony Buzan, NXB Lao động- Xã hội. 3. Hoạt động dạy học bằng phương pháp “Lập bản đồ tư duy” (Tài nguyên dạy học Bộ GD&ĐT) 4. Sách giáo khoa, sách giáo viên lịch sử lớp 5. 5. Một số hình ảnh, bản đồ khai thác từ mạng Internet
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_day_hoc_lich_su_lo.doc