Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học môn Lịch sử
Trong chương trình Tiểu học, Lịch sử là một môn học có vị trí đặc biệt. Nó đảm nhận việc giáo dục nhân cách, đạo đức, nhân sinh quan, thế giới quan, góp phần hình thành những phẩm chất của con người Việt Nam và bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc. “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước.” Duy trì, tiếp nối và phát huy những truyền thống quý báu đó của dân ta từ ngàn xưa chính là cần thiêt, là nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của môn Lịch sử trong nhà trường.
Hiện nay, các nhà trường Tiểu học đang thực hiện giảng dạy theo nội dung chương trình sách giáo khoa mới. Tuy chương trình Lịch sử lớp 4 theo sách giáo khoa mới được đưa vào giảng dạy từ năm học 2005 - 2006, nhưng từ đó đến nay, nhiều giáo viên vẫn không tránh khỏi lúng túng trong việc sử dụng và khai thác sách giáo khoa. Mặc dù trong những năm gần đây, tỉ lệ giáo viên đi học để nâng cao trình độ đào tạo tăng nhiều, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, hầu hết số giáo viên được đào tạo để nâng chuẩn đều vừa dạy vừa học theo các hình thức đào tạo tại chức, đào tạo từ xa nên việc học tập có nhiều hạn chế. Bộ, Sở, Phòng giáo dục và đào tạo cũng đã có các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng về phương pháp dạy học nhưng việc tiếp cận với phương pháp dạy học mới, phát huy tính tích cực của học sinh còn dừng lại ở mức độ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học môn Lịch sử

không đủ. Các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu, thiếu đồng bộ. 1.5. Biện pháp thứ năm: Tổ chức cho học sinh làm việc hợp tác theo nhóm để tự phát hiện kiến thức. Học tập lịch sử để hình dung rõ ràng, giải thích đúng, có cơ sở khoa học về tiến trình lịch sử. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử, biến cố lịch sử, không phải xuất hiện một cách tùy ý, hoàn toàn ngẫu nhiên mà là sản phẩm của những điều kiện lịch sử nhất định, có những mối quan hệ nhân quả nhất định, tuân theo những quy luật nhất định. Học tập lịch sử không chỉ hình dung được hình ảnh của quá khứ mà điều cốt yếu là phải hiểu lịch sử, tức là nắm được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trên cơ sở đó hình thành khái niệm, phát hiện mối quan hệ, rút ra các bài học lịch sử. Bởi vậy, khi dạy học, tôi thường tạo điều kiện cho học sinh độc lập suy nghĩ, tự tìm tòi, phát hiện kiến thức chứ không áp đặt những kết luận có sẵn. Để làm được việc này, tôi không chỉ sử dụng các phương pháp diễn giải mà tổ chức bài học thành những vấn đề rồi dùng hệ thống câu hỏi, kích thích học sinh tự tìm tòi, tự phát hiện kiến thức một cách độc đáo, sáng tạo. Phương pháp dạy học vấn đáp - tìm tòi này giúp học sinh có thể lĩnh hội kiến thức một cách chắc chắn. Để sử dụng phương pháp này hiệu quả, tôi thường đầu tư xây dựng các câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, tường minh, tránh những câu hỏi rườm rà, không có tác dụng phát triển tư duy. Trong một bài hoặc một phần không nên đặt quá nhiều câu hỏi. Ngoài ra, tôi còn sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Giáo viên đưa ra các ý kiến khác nhau để học sinh trao đổi, thảo luận, lựa chọn, nêu ý kiến riêng của mình. Tuy nhiên, không phải bất cứ bài học nào, phần kiến thức nào cũng đem ra thảo luận. Tùy từng dạng bài, tùy từng phần kiến thức mà giáo viên cho học sinh thảo luận.Thông thường chỉ những phần kiến thức phức tạp, có nhiều cách hiểu khác nhau, hay những câu hỏi, những bài tập khó cần có sự hợp tác giữa các cá nhân thì nên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm. Khi thảo luận nhóm, giáo viên cần lưu ý đến thời gian tiết học, không gian lớp học và số lượng học sinh để tổ chức thảo luận nhóm một cách hợp lí. Không nên lạm dụng phương pháp này trong suốt tiết học cũng như phải hết sức tránh tính hình thức trong thảo luận nhóm. * Ví dụ: Bài 10 - Chùa thời Lý. Hoạt động của giáo viên Hoạt động của trò Hoạt động 2: Sự phát triển của đạo Phật dưới thời Lý - Giáo viên chia học sinh thành các nhóm 4, yêu cầu học sinh đọc SGK và thảo luận để trả lời câu hỏi: Những sự việc nào cho ta thấy dưới thời Lý, đạo Phật rất thịnh đạt? - Giáo viên gọi đại diện các nhóm phát biểu. - Giáo viên kết luận: Dưới thời Lý, đạo Phật rất phát triển và được xem là Quốc giáo. (là tôn giáo của quốc gia) - Học sinh chia thành nhóm 4 cùng thảo luận để tìm câu trả lời. - Đại diện học sinh một nhóm nêu ý kiến,các nhóm khác bổ sung và thống nhất câu trả lời đúng là: + Đạo Phật được truyền bá rộng rãi trong cả nước, nhân dân theo đạo Phật rất đông, nhiều nhà vua thời này cũng theo đạo Phật. Nhiều nhà sư được giữ cương vị quan trọng trong triều đình. + Chùa được mọc lên khắp nơi, năm 1031, triều đình bỏ tiền xây dựng 950 ngôi chùa, nhân dân cũng đóng góp tiền xây chùa. 1.6. Biện pháp thứ sáu: Tạo điều kiện cho học sinh học tập qua việc tiếp xúc các nguồn sử liệu trong thực tế. Lịch sử đã đi qua nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại dấu vết của nó qua kí ức của nhân loại (văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội); qua những thành tựu văn hóa vật chất (thành quách, nhà cửa; đình, chùa, miếu mạo, tượng đài,); qua các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa; qua tên đất, tên làng, tên đường phố; qua tranh ảnh, báo chí đương thời; qua thái độ của người đương thời đối với các sự kiện lịch sử (những ngày kỉ niệm, những ngày lễ lớn,) Chỉ có trên cơ sở những chứng cứ vật chất nói trên mới có sự nhận thức và trình bày về lịch sử. Ngày nay, ngoài những hình thức dạy học truyền thống, người ta hết sức quan tâm đến các hình thức tổ chức dạy học tại thực địa, bảo tàng, khu di tích, tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên. Tại địa phương tôi, những dấu vết cổ xưa của lịch sử phong kiến không còn nữa. Những mái đình, mái chùa qua hàng chục năm đằm mình trong bom đạn nay đã được xây dựng lại, khang trang hơn, to đẹp hơn. Tuy nhiên, những nét đặc trưng của ngôi chùa từ thời Lý vẫn còn vẹn nguyên. Vì vậy, khi dạy bài Chùa thời Lý, tôi đã yêu cầu các em quan sát và nhận xét về đặc điểm ngôi chùa ở làng mình rồi từ đó đối chiếu với nội dung tìm hiểu trong bài, các em sẽ có nền tảng kiến thức thực tế vững chắc hơn. Đối với những bài học về nhân vật lịch sử, các cuộc khởi nghĩa, tôi thường yêu cầu học sinh tìm hiểu qua suy nghĩ của ông, bà, cha, mẹ về những anh hùng lịch sử ấy, những chiến công oanh liệt ấy. Sự kế thừa lòng yêu nước, ngưỡng mộ các danh nhân lịch sử Việt Nam của các em qua ông bà, cha mẹ sẽ tốt hơn nhiều việc các em được giáo dục, bồi đắp qua các câu chữ khô khan, qua lời nói “suông” của giáo viên. 1.7. Biện pháp thứ bảy: Dạy Lịch sử qua các hoạt động ngoại khóa. Bên cạnh những giờ học trên lớp chật hẹp, ngoại khóa là điều cần thiết để giải tỏa những căng thẳng và bổ sung thêm nhiều kiến thức cho học sinh. Nếu dạy học Lịch sử lớp 5 với những câu chuyện, những kỉ niệm chân thực về một thời lửa đạn được các nhân chứng những cựu chiến binh trở về từ bom đạn kể lại sẽ thu hút học sinh đến với lịch sử mạnh mẽ hơn, tích cực hơn. Nhưng Lịch sử lớp 4, nội dung là kiến thức các triều đại phong kiến, ta không thể mời nhân chứng từ quá khứ về kể chuyện cho học sinh nghe. Vì vậy, tổ chức cho học sinh thăm quan các khu di tích lịch sử như Đền Hùng, Cổ Loa, Hoa Lư, , các viện bảo tàng lịch sử đề các em được tận mắt nhìn, được sờ tận tay các di vật từ lịch sử, được cảm nhận khí thế anh hùng thiêng của dân ta thời Trần, các em sẽ hứng thú hơn với Lịch sử nước nhà, hình thành thói quen tự giác tìm hiểu Lịch sử quốc gia. Tất cả các kiến thức ấy sẽ thấm dần vào nhận thức của học sinh một cách tự giác chứ không phải nhồi nhét một cách thụ động, tiêu cực. III. ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH MỚI, TÍNH HIỆU QUẢ VÀ KHẢ THI, PHẠM VI ÁP DỤNG: 1. Tính mới: Trong năm học này, năm học 2015 - 2016, tôi tiếp tục thực hiện áp dụng đề tài trên, đến thời điểm này, theo đánh giá của bản thân, tôi thấy các em có tiến bộ rõ rệt về kĩ năng học lịch sử và một điều quan trọng là các em sẵn sàng đón nhận giờ Lịch sử với tâm thế hào hứng, ngay cả những em vốn học yếu và nhút nhát cũng đã mạnh dạn xung phong trả lời và trả lời tương đối tốt. Từ kết quả thu được thông qua bảng thống kê trên, và qua thực tế giảng dạy, tôi thấy rằng đề tài đã đem lại kết quả tương đối khả quan. Kết quả này cho thấy các biện pháp được đề xuất trong đề tài mang tính khả thi. Những tiết dạy thực hiện các biện pháp đã nêu được tổ khối chuyên môn đánh giá cao. Nếu đề tài được thực nghiệm một cách qui mô hơn, phạm vi rộng hơn, tôi tin rằng nó sẽ mang lại kết quả cao hơn trong điều kiện thực tế của địa phương trường chúng tôi. Góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao chất lượng dạy – học của giáo viên và học sinh. 2. Tính hiệu quả và khả thi Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối 4, tôi nhận thấy việc dạy học Lịch sử. Học sinh lớp tôi trong năm học 2014 - 2015, qua một số lần kiểm tra, tôi thấy chất lượng học Lịch sử của các em có tiến bộ nhiều so vớ những năm học trước: - Biết biết cách theo dõi kênh chữ kết hợp kênh hình để tìm hiểu nội dung bài. (chiếm khoảng 75%). - Các em chưa biết cách học linh hoạt các nội dung chính trong một bài học. Các em thường học máy móc các ý trong phần ghi nhớ cuối bài nên hiệu quả không cao. (chiếm khoảng 15%). - Ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, thời gian và ý nghĩa các cuộc khởi nghĩa còn hạn chế. Học sinh thường bị nhầm lẫn giữa các sự kiện, nhân vật, thời gian lịch sử với nhau. (chiếm khoảng 15%). So với đầu năm chất lượng của các em về môn lịch sử trong năm đã tiến bộ rõ rệt. 3. Phạm vi áp dụng Từ một số kinh nghiệm đã nêu, qua bản thân tôi đã áp dụng cùng với nhiều bạn đồng nghiệp trong trường và trong xã nhà đã áp dụng. Thông tin phản hồi cho thấy: Tất cả đồng nghiệm đã áp dụng cho rằng kinh nghiệm nêu trên dễ áp dụng và mang lại hiệu quả khá cao. IV. KẾT LUẬN: Một dân tộc phát triển là một dân tộc biết gìn giữ và phát huy những truyền thống lịch sử. Nhiệm vụ ấy đang đặt nặng trên “đôi vai” ngành giáo dục nước nhà, mà cụ thể là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo chúng ta. Dạy học sinh biết, hiểu, tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc là góp phần giữ gìn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam thành một khối đoàn kết vững chắc. Có được kết quả như trên, bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên, ý thức vươn lên trong học tập của học sinh còn có sự chỉ đạo đúng hướng, nhiệt tình, sát sao của Ban Giám hiệu nhà trường, của lãnh đạo các cấp. Chính vì vậy mà giờ Lịch sử không phải là giờ học khó, giúp các em phấn khởi, tích cực, tự tin trong học tập, giúp chất lượng môn Lịch sử được nâng cao, làm nền tảng cho khả năng học Lịch sử sau này của các em ở những cấp học cao hơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ TRỰC TIẾP Người báo cáo Huỳnh Văn Đông Mẫu 02/BCTTSK CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Trần Thới, ngày 30 tháng 4 năm 2015 BÁO CÁO TÓM TẮT NỘI DUNG, HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN - Tên sáng kiến: Nâng cao chất lượng học môn Lịch sử - Họ và tên: Huỳnh Văn Đông - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trần Thới 2. - Cá nhân, tổ chức phối hợp: - Thời gian đã được triển khai thực hiện: Từ ngày: 8/2015 đến ngày 4/2016 1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến: Cần thiếc để phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn kịch sử lớp 4, người giáo viên cần phải phối hợp các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học lịch sử rất đa dạng. Muốn làm được điều đó, giáo viên phải thực hiện: Nắm vững chương trình. Nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn. Sưu tầm tư liệu, tranh ảnh để minh hoạ. Chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc dạy học. 2. Mô tả sáng kiến (nội dung sáng kiến): Trong quá trình giảng dạy ở lớp 4, tôi nhận thấy. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy lịch sử cho học sinh với các giải pháp: 2.1. Giải pháp thứ nhất: Không coi Lịch sử là môn phụ. Tôi luôn quan niệm Lịch sử là một môn học quan trọng, không cắt xén thời gian của Lịch sử cho việc dạy các môn khác. 2.2. Biện pháp thứ hai: Tìm hiểu chương trình, nội dung dạy học Lịch sử lớp 4. Từ đó, xác định những phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi dạng bài. Trong chương trình dạy học Lịch sử ở lớp 4, chúng ta gặp các dạng bài học cơ bản sau: Một là. Dạng bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế - chính trị, văn hóa- xã hội. * Hiểu: - Hoàn cảnh ra đời, địa phận (cương vực địa lí); thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên vua, tên nước, nơi đóng đô, * Kĩ năng: - So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của các triều đại hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau. * Thái độ: - Có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc qua các triều đại thông qua phim ảnh, các câu chuyện lịch sử, Hai là. Dạng bài có nội dung về nhân vật lịch sử. * Hiểu: - Công lao và những đóng góp của một số nhân vật đối với lịch sử dân tộc. Ba là. Dạng bài có nội dung về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến dịch, phản công, * Hiểu: - Thời gian, địa điểm. Những nét chính về diễn biến và ý nghĩa của các thắng lợi đó. * Thái độ: biết ơn những người đã làm nên những sự kiện vĩ đại của lịch sử dân tộc và có ý thức bảo vệ những thành quả của cách mạng. Bốn là. Dạng bài có nội dung về thành tựu văn hóa-khoa học. * Hiểu một số thành tựu trong lĩnh vực văn hóa. Có ý thức trân trọng, giữ gìn, bảo vệ những thành tựu văn hóa, khoa học của dân tộc. Năm là. Dạng bài có nội dung ôn tập, tổng kết. * Hệ thống hóa và củng cố những kiến thức đã học. 2.3. Biện pháp thứ ba: Chuẩn bị chu đáo cho giờ dạy - học Lịch sử. a. Đối với học sinh: - Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa, từ đó các em có thể nêu được những ý chính của bài học. b. Đối với giáo viên. - Soạn bài cụ thể, chi tiết rõ hoạt động của thầy, của trò. Nắm chắc mục tiêu, yêu cầu ở từng bài. Nắm vững hệ thống câu hỏi trong bài Lịch sử. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học sinh để học sinh hiểu nội dung bài một cách hiệu quả nhất, từ đó tìm ra nội dung cần ghi nhớ. Liên hệ, tích hợp với kiến thức Địa lí để tăng hiệu quả dạy học. 2.4. Biện pháp thứ tư: Sử dụng hiệu quả các phương tiện trực quan, đồ dùng dạy học kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử. Khi giảng dạy, hiệu quả tiết dạy thấy rõ ràng. Học sinh hăng hái, sôi nổi, tích cực hoạt động. Được tiếp xúc với tranh ảnh lịch sử sinh động, các em chủ động tiếp thu và nắm vững kiến thức hơn. 2.5. Biện pháp thứ năm: Tổ chức cho học sinh làm việc hợp tác theo nhóm để tự phát hiện kiến thức. Giáo viên đưa ra các ý kiến khác nhau để học sinh trao đổi, thảo luận, lựa chọn, nêu ý kiến riêng của mình. 2.6. Biện pháp thứ sáu: Tạo điều kiện cho học sinh học tập qua việc tiếp xúc các nguồn sử liệu trong thực tế. Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên. 2.7. Biện pháp thứ bảy: Dạy Lịch sử qua các hoạt động ngoại khóa. 3. Đánh giá về tính mới của sáng kiến: Nhìn chung một cách tổng thể về việc giáo viên giúp học sinh nắm được các móc lịch sử, sử kiện, thời đại, các vị quan, các chiến tháng...... Mà điều này tôi thấy giáo viên trong quá trình hướng dẫn cho học sinh, giáo viên tổ chức mang tính sáng tạo không cao. Kinh nghiệm nêu trên qua một năm áp dụng tôi thấy bước đầu đa số các em nắm được nội dung từng bài học. 4. Đánh giá về tính hiệu quả và khả thi của sáng kiến: So với đầu năm chất lượng của các em về môn lịch sử trong năm đã tiến bộ rõ rệt. 5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến: Từ một số kinh nghiệm đã nêu, qua bản thân tôi đã áp dụng cùng với nhiều bạn đồng nghiệp trong trường và trong xã nhà đã áp dụng. Thông tin phản hồi cho thấy: Tất cả đồng nghiệp đã áp dụng cho rằng kinh nghiệm nêu trên dễ áp dụng và mang lại hiệu quả khá cao. 6. Kết luận, đề xuất: Một là: Giáo viên phải nắm được vai trò vị trí của phân môn Lịch sử. Giáo viên phải nắm được mục tiêu của từng bài dạy ở phân môn Lịch sử. Hai là: Giáo viên phải biết từng thể loại của từng bài Lịch sử để dạy cho học sinh thật sự mang lại hiệu quả tốt. Ba là: Giáo viên phải biết phân tích SGK, SGV cùng với các tài liệu hỗ trợ khác. Bốn là: Giáo viên phải biết tổ chức giờ dạy Lịch sử phát huy được tính tích cực của người học, từng đối tượng khác nhau của học sinh trong lớp. Năm là: Phải làm tốt công tác chủ nhiệm. Sáu là: Giáo viên phải biết dự đoán các tình huống xấu xảy ra trong giờ học Lịch sử. Từ đó chủ động giải quyết các tình huống không tốt theo chiều hướng tích cực. Bảy là: Giáo phải hiểu một cách sâu sắc nội dung của từng bài Lịch sử. Ý kiến xác nhận Của Thủ trưởng đơn vị Ngày 30 tháng 4 năm 2016 Người báo cáo Huỳnh Văn Đông
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_hoc_mon_lich_su.doc