Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả dạy - học một số bài Lịch sử Việt Nam trong chương trình lớp 11 bằng phương pháp sử dụng tài liệu văn học

Trong nhà trường phổ thông, bộ môn lịch sử là một trong những bộ môn có tầm quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức tranh sinh động về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc. Trong quá trình giảng dạy môn lịch sử, ở các bài học nội dung truyền đạt cho học sinh chỉ là những kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh. Trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động.

Ví dụ như cung cấp thêm những hình ảnh ngoài sách giáo khoa hoặc những mẫu chuyện kể về những con người đã góp phần xây dựng đất nước để có được những thành tựu của hôm nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến. Qua tiết dạy không đem lại hứng thú cho học sinh, tiết học trở nên khô khan đôi lúc học sinh lại có những suy nghĩ lệch lạc về những nhân vật lịch sử hoặc những sự kiện lịch sử quan trọng. Từ yêu cầu và thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm đã học. Vì vậy người giáo viên phải biết sử dụng đến kiến thức các môn học khác như địa lí, giáo dục công dân, văn học,…

doc 22 trang SKKN Lịch Sử 15/10/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả dạy - học một số bài Lịch sử Việt Nam trong chương trình lớp 11 bằng phương pháp sử dụng tài liệu văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả dạy - học một số bài Lịch sử Việt Nam trong chương trình lớp 11 bằng phương pháp sử dụng tài liệu văn học

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả dạy - học một số bài Lịch sử Việt Nam trong chương trình lớp 11 bằng phương pháp sử dụng tài liệu văn học
khái – Phan Văn Trị
Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân không chỉ đánh Tây mà chống cả triều đình nhà Nguyễn.
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam diễn ra anh dũng, kiên cường. Nhiều nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh không sợ cái chết, để nói lên tinh thần đó giáo viên nên sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói về tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc:
	“Đứng trước vũ khí của chúng ta, những người An Nam chỉ có một phương sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ các quyền tự do của họ. Họ đã bình tĩnh đương đầu cái chết với một sự can đảm tột đỉnh và trong số rất đông những người ngã xuống vì những viên đạn của các đơn vị hành hình hay dưới làn gươm của các tên đao phủ, chúng tôi không bao giờ ghi nhận được một sự yếu đuối nào”.
2.4.2.3. Sử dụng tài liệu văn học trong bài dạy 21
Khi dạy bài 21 “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”. Trong bối cảnh triều đình nhà Nguyễn đã hoàn toàn đầu hàng Pháp, thì phong trào yêu nước chống Pháp của của các văn thân, sĩ phu yêu nước và nhân dân vẫn tiếp tục diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu nhất trong phong trào yêu nước đó là cuộc khởi nghĩa Hương Khê, lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa là Phan Đình Phùng. Nhắc đến cụ Phan giáo viên nên đưa câu nói nổi tiếng của cụ vào bài giảng. Đó là “ngôi mộ to nhất nên giữ là Tổ quốc Việt Nam, người thân, rất thân nhất là cả mấy triệu đồng bào”
Để đàn áp cuộc khởi nghĩa của ông, thực dân Pháp đã dùng đến thủ đoạn hèn hạ là khai quật mồ mả tổ tiên của ông, bắt và dọa giết người anh ruột của cụ. Câu nói trên của Cụ thực sự đã trở thành bất hủ để thế hệ trẻ hôm nay sống cần có phẩm chất khí tiết, có trách nhiệm hơn với đất nước và lợi ích dân tộc, không chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của bản thân mình.
Cũng trong phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX, ngoài hoạt động yêu nước trong phong trào Cần Vương thì cuộc đấu tranh nổi dậy của nông dân cũng diễn ra sôi nổi khắp cả nước. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Đề Thám lãnh đạo kéo dài gần 30 năm. Để khắc họa hình ảnh của người nông dân Việt Nam trong cuộc đấu trang chống Pháp cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, giáo viên có thể dẫn chứng qua bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.
“Côi cút làm ăn, lo toan nghèo khó
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” – Nguyễn Đình Chiểu
Qua đoạn trích trên học sinh sẽ thấy được hình ảnh chân thực về người nông dân Việt Nam. Họ vốn rất nghèo,quanh năm chỉ biết đến đồng ruộng, chưa từng ra khỏi lũy tre làng, nhưng khi thực dân Pháp đến xâm lược, cướp bóc họ đã đứng lên chiến đấu và hi sinh dũng cảm. Và chính họ không ai khác đã trở thành những chiến sĩ vô danh, “tượng đài bi tráng của những người anh hùng thất thế”. 
 2.4.2.4. Sử dụng tài liệu văn học trong bài dạy 22
Trong bài 22 “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp”, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, khi phân tích cuộc sống của người công nhân Việt Nam lao động trong các đồn điền cao su cho thực dân Pháp, giáo viên có thể nhấn mạnh sự bóc lột, vắt kiệt sức lao động của người công nhân Việt Nam bằng các nội dung sau:
“Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủn beo”
Hay:
“Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân”
2.4.2.5. Sử dụng tài liệu văn học trong bàì dạy 23	
Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là hai nhà nho yêu nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
	Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Quảng Đông (Trung Quốc). Để khắc họa hình ảnh Phan Bội Châu giáo viên trình bày nội dung ngắn gọn tác phẩm “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội châu” của Nguyễn Ái Quốc:
	“Trước khi Va-ren từ Pháp sang Đông Dương nhận chức Toàn quyền y hứa sẽ chăm sóc cụ Phan Bội Châu. Khi gặp cụ Phan, Va-ren ra sức dụ dỗ, thuyết phục, nhưng vẫn không mua chuộc được Phan Bội Châu, cụ Phan thì tỏ thái độ im lặng, dửng dưng. Anh lính dõng thì quả quyết rằng có thấy đôi ngọn râu mép của cụ Phan nhếch lên một chút. Nhân chứng thứ 2 lại quả quyết cụ Phan đã nhổ vào mặt Va-ren”.
Cụ Phan Bội Châu được biết đến không chỉ là một sĩ phu, bậc tiền bối yêu nước chống Pháp tiêu biểu ở đầu thế kỉ XX. Cụ còn là một nhà thơ lớn, thơ của Cụ là tiếng lòng, là khát khao của một người anh hùng mang trong mình hoài bão lớn. Bài thơ “Xuất Dương Lưu Biệt” của Cụ là một tác phẩm thể hiện rõ nét nhất tư tưởng ấy.
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?
Non sông đã mất, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
(Bản dịch của Tôn Quang Phiệt)
Phan Châu Trinh theo xu hướng cải cách với nội dung chủ yếu là cải cách về văn hóa – xã hội gắn liền với giáo dục lòng yêu nước, mở trường Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội, các buổi diễn thuyết hay bình văn thu hút được nhiều tầng lớp tham gia như có quan lại, binh lính, viên chức, nông dân  một bài văn thời đó đã viết:
“Buổi diễn thuyết, người đông như hội
Kì bình văn, khách đến như mưa”
Cũng như cụ Phan Bội Châu, nhà nho yêu nước Phan Châu Trinh cũng là một nhà thơ lớn, tư tưởng yêu nước chống Pháp của Cụ được thể hiện trong bài thơ “Đập Đá Ở Côn Lôn”.
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự con con.”
( Phan Châu Trinh- Làm ở Côn Lôn năm Đinh Mùi 1907 )
2.4.2.6. Sử dụng tài liệu văn học trong bài dạy 24	
Trong bài 24 “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918). Trong mục III của bài - phần buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, từ rất sớm Người đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ nên Người đã quyết định tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Người quyết định sang phương Tây, đến nước Pháp để tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rồi trở về giúp đồng bào mình. Giáo viên có thể sử dụng một đoạn trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của nhà thơ Chế Lan Viên để nhấn mạnh về hành trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ.
“Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”
Không phải hình một bài thơ đã tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất 
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai 
Thế đi đứng của toàn dân tộc 
Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người”
 “Người đi tìm hình của nước” – Chế Lan Viên
	Ngoài ra tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động ngoại khóa cho môn lịch sử và cách dễ thực hiện, đạt hiệu quả cao là đọc sách, nhằm cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy cho học sinh. Muốn đưa tài liệu văn học vào dạy lịch sử, trong hoạt động ngoại khóa có hiệu quả thì giáo viên phải giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu một số tác phẩm truyện hoặc thơ có liên quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên có thể khơi dậy tính hiếu kì và lòng ham hiểu biết của học sinh bằng cách tóm tắt sơ lược nội dung trong sách, kể một vài chi tiết, những đoạn nhỏ trong sách để kích thích học sinh tiếp tục đọc để tìm hiểu
2.5. Kết quả đạt được
	Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy cho học sinh khối 11 và đạt được kết quả khả quan, khi sử dụng một bài thơ, câu văn, câu trích dẫn minh họa cho một sự kiện lịch sử, bài học lịch sử làm giờ học sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn, giờ học đạt hiệu quả cao. 
Trong quá trình dạy học sử dụng thơ văn làm cho học sinh hứng thú hơn, chủ động trong việc học tập, qua đó các em chủ động tìm những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lịch sử, đồng thời học sinh còn ôn tập, củng cố, tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn
Qua một năm trực tiếp giảng dạy học sinh khối 11, với phương pháp sử dụng tài liệu văn học vào bài dạy lịch sử ở trường THPT Như Thanh, tôi nhận thấy kết quả đạt được rất khả quan. Đa số học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng. Các em đều nắm được kiến thức cơ bản của bài học, từ đó hình thành được cho học sinh ý thức và thái độ nghiêm túc trong học tập, khắc phục được sự tản mạn, khó hiểu của môn học. 
 Sau một thời gian tiến hành dạy - học bằng phương pháp sử dụng tài liệu văn học ở khối lớp 11 trường THPT Như Thanh, với các mức độ khác nhau ở các lớp. Tôi đã thu được kết quả so sánh cụ thể như sau: 
Các mức độ
Khối lớp thường xuyên sử dụng tài liệu văn học trong bài học lịch sử
Khối lớp ít sử dụng tài liệu văn học trong bài học lịch sử 
Hứng thú học tập 
Đa số học sinh hứng thú trong giờ học lịch sử.
Học sinh chưa được hứng thú trong giờ học
Mức độ tiếp thu kiến thức
Học sinh hiểu bài nhanh hơn , nắm vững kiến thức, hiểu biết sự kiên lịc sử sâu sắc.
Học sinh tiếp thu kiến thức của bài còn chậm, thụ động, hiểu kiến thức bài học còn sơ sài, qua loa
Kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức để làm bài tập
Học sinh linh hoạt, biết vận dụng kiến thức để phân tích sự kiện, nhân vật lịch sử, bài làn có chiều sâu.
Học sinh chủ yếu học thuộc lòng, ghi nhớ các sự kiện một cách máy móc
Giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh
Học sinh có tình cảm, thái độ đúng đắn với môn học
Học sinh chưa thực sự chủ động, và chưa tích cực trong học tập.
Chiều hướng phát triển.
Phát triển tư duy độc lập, tự học, có tính sáng tạo trong học tập bộ môn.
Chưa rèn luyện cho học sinh tư duy độc lập

2.6. Bài học kinh nghiệm
	Hướng dẫn học sinh đọc và sưu tầm các loại tài liệu tham khảo là những tác phẩm văn học cho phù hợp, giúp học sinh chọn, xác định những tác phẩm nào phục vụ cho yêu cầu của dạy học lịch sử, tránh sử dụng những tác phẩm bịa đặt ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh
	Giáo viên lịch sử phải luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp 
dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học 
đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy.
	Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để cung cấp thêm thông tin và kiến thức ở mỗi bài học. kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, hình ảnh, tranh vẽ, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp.. để góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy.
	Giáo viên phải biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá kiến thức mới, dạy cho học sinh không chỉ có kiến thức mà cả phương pháp học trong đó, cốt lõi là tự học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và phát huy, Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận sự kiện dưới những góc độ khác, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi lí giải một hiện tượng. Biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống. Phải giáo dục cho học sinh không vội vã bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu ra, không suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, không máy móc áp dụng những mô hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở để ứng xử trước những tình huống mới.
	Người giáo viên lịch sử cần bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ khoa học chính xác, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự chú của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học.
3. Kết luận
3.1. Kết luận
Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy sẽ giúp học sinh đạt được kết quả cao nhất về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, giúp học sinh hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức nhanh và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế. Giáo viên không chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn để học sinh có cơ hội tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức mà còn phải biết vận dụng vốn kiến thức đã biết để hiểu kiến thức mới, có như vậy mới phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh trong học tập.
	Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi, phần lớn dựa vào tình hình học tập của các em học sinh trường THPT Như Thanh nên khả năng áp dụng thực tiễn không rộng rãi và chắc chắn còn nhiều hạn chế, kính mong quí thầy cô đóng góp ý kiến thêm. Tôi chân thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị:
	Hiện nay trong nhà trường đã được cấp nhiều thiết bị dạy học tuy vậy đối với môn lịch sử thì đồ dùng còn quá ít, vì vậy muốn đạt kết quả cao trong bộ môn này cần có thêm những yêu cầu sau:
- Cần có đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa, các chân dung nhân vật lịch sử
- Cần tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học
- Nên có những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử
- Cung cấp nhiều tư liệu để giảng dạy tốt phần lịch sử địa phương.
Như Thanh, ngày 21 tháng 5 năm 2017
 Người viết sáng kiến
Vi Thị Khoa
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
1.
Mở đầu........................................................................................

1.1
Lý do chọn đề tài................................................................................

1.2
Mục đích nghiên cứu.........................................................................

1.3
Đối tượng nghiên cứu của đề tài.........................................................

1.4
Phương pháp nghiên cứu.

2.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm......................................................

2.1.
Cơ sở lí luận của Sáng kiến.

2.2.
Thực trạng của vấn đề 

2.3.
Các biện pháp tiến hành.

2.3.1.
Đối với học sinh

2.3.2
Đối với giáo viên.

2.4.
Một số giải pháp cụ thể để .........................

2.4.1
Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử.................................

2.4.2
Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học một số bài lịch sử việt Nam..

2.4.2.1


2.4.2.2


2.4.2.3


2.4.2.4


2.4.2.5


2.4.2.6


2.5.
Kết quả đạt được

2.6.
Bài học kinh nghiệm..




3.
Kết luận và kiến nghị ..

3.1
Kết luận..

3.2
Kiến nghị.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, bài tập lịch sử 11– Nhà xuất bản Giáo dục.
- Tài liệu hội thảo tập huấn : Đổi mới nội dung và phương pháp dạy lịch sử
- Hoạt động dạy học ở trường THPT – Nhà xuất bản Giáo dục.
- Phương pháp dạy học lịch sử của - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Lý luận dạy học lịch sử (Giáo trình của trường Đại học Cần Thơ)
- Giáo dục học (lý luận dạy học tập II) Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội	
- Đại cương lịch sử Việt Nam (tập II) Nhà xuất bản giáo dục.
- Tinh Tuyển Văn học Việt Nam Nhà xuất bản khoa học xã hội

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_mot_so_bai_l.doc