Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử (phần Lịch sử thế giới 8, 9)
1/ Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến thay đổi to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học- kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành GD- ĐT nói chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và không có giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và tương đối.
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử (phần Lịch sử thế giới 8, 9)

ên Xô. Đỉnh cao của chính sách thỏa hiệp là Anh- Pháp- Mĩ nhượng bộ cho Đức thôn tính Tiệp Khắc để đổi lấy việc Đức nhận quay sang tấn công Liên Xô. Tuy nhiên, sau khi thôn tính xong Tiệp Khắc, Hít-le thấy chưa có đủ sức đánh ngay Liên xô, nên quyết định tấn công châu Âu trước. Như vậy chính sách nhượng bộ thỏa hiệp của các nước châu Âu dẫn đến sự chủ quan, khinh địch, tạo điều kiện thuận lợi cho Đức gây chiến. Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho HS, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em. b, Bản đồ, lược đồ: Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học lịch sử. Trên bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian, thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định. Khi dạy đến bài có bản đồ tôi đã hướng dẫn các em thực hiện các bước như sau: Cho häc sinh trùc quan b¶n ®å. Giíi thiÖu c¸c ký hiÖu ®· ghi trªn b¶n ®å. Gi¸o viªn tường thuËt miªu t¶ thÝch øng víi c¸c ký hiÖu ®· ghi trªn b¶n ®å. Gi¸o viªn hướng dÉn häc sinh ph©n tÝch ®¸nh gi¸ rót ra bµi häc lÞch sö. VÝ dô: Khi gi¶ng §øc ®¸nh chiÕm Ch©u ¢u trong phÇn I cña bµi “ChiÕn tranh thÕ giíi thø 2” trong s¸ch tËp I – s¸ch gi¸o khoa líp 9. §Ó häc sinh hiÓu ®ưîc v× sao §øc miÖng h« lµ tiªu diÖt Liªn X« nhưng më ®Çu cuéc chiÕn tranh §øc l¹i ®¸nh Ba Lan. Trưíc hÕt gi¸o viªn treo b¶n ®å (hoặc chiếu) cho häc sinh quan sát. ChØ c¸c ký hiÖu vÞ trÝ c¸c nước, và tường thuËt: Ngµy 1 th¸ng 9 n¨m 1939 §øc tÊn c«ng Ba Lan, Anh, Ph¸p buéc ph¶i tuyªn chiÕn víi §øc v× Ba Lan lµ ®ång minh. Th¸ng 4 n¨m 1940 ®Õn th¸ng 6 n¨m 1940 §øc tËp trung lùc lượng ®¸nh chiÕm c¸c nưíc T©y ¢u víi chiÕn thuËt tèc chiÕn tÊn c«ng b»ng xe t¨ng, m¸y bay tÊn c«ng bao v©y l·nh thæ ®èi phư¬ng. Trong 2 tuÇn §øc ®¸nh §an M¹ch, Na Uy, BØ, Hµ Lan, Luých X¨m Bua sau ®ã trµn sang Ph¸p. Ngµy 22/6/1940 chÝnh phñ Ph¸p kÝ víi §øc hiÖp ưíc ®Çu hµng nhôc nh·. Th¸ng 6 n¨m 1940 ®e do¹ ®æ bé lªn nưíc Anh. Sau khi gi¸o viªn tưêng thuËt rồi đặt câu hỏi: T¹i sao §øc chän Ban Lan tÊn c«ng ®Çu tiªn? Häc sinh m¾t thÊy, tai nghe ph©n tÝch ph¸n ®o¸n vµ tr¶ lêi c¸c ý sau: §øc chän Ba Lan tÊn c«ng ®Çu tiªn v×: + Ba Lan cã tµi nguyªn phong phó phôc vô cho chiÕn tranh: than, dÇu, s¾t thiÕc. + Ba Lan cã vÞ trÝ chiÕn lược quan träng n»m gi÷a T©y vµ §«ng ¢u. + Lµ b×nh phong ¸n ng÷ cho §øc tr¸nh ®ưîc sù tÊn c«ng Liªn X« ®Ó §øc cã thÓ ®¸nh chiÕm c¸c nưíc T©y ¢u sau ®ã sÏ trë l¹i tÊn c«ng c¸c nước §«ng ¢u đÆc biÖt lµ Liªn X«. §¸nh Ba Lan trưíc Anh, Ph¸p chẳng ph¶n øng g×, v× vËy §øc nuèt chöng Ba Lan lµm bµn ®¹p tÊn c«ng c¸c nưíc T©y ¢u. Ví dụ 2: Khi dạy lịch sử lớp 8 bài 1 “Những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên” phần III- ý 1 “Tình hình các thuộc địa”. Nguyên nhân của chiến tranh” sử dụng hình 13 để giáo viên khai thác nội dung này. Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ, giới hạn phạm vi 13 thuộc địa trên lược đồ (màu đen), sau đó GV yêu cầu HS đọc SGK và trả lời câu hỏi: Châu Mĩ được phát hiện khi nào? Do ai phát hiện ra? Các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ được thành lập khi nào? Đây là vùng đất có đặc điểm gì? Nền kinh tế Bắc Mĩ phát triển như thế nào? Tại sao nhân dân Mĩ lại đứng lên đấu tranh chống thực dân Anh? Sau khi HS lần lượt trả lời các câu hỏi trên, GV sử dụng lược đồ phóng to treo trên bảng ( hoặc dùng máy chiếu) để phân tích tình hình thành lập thuộc địa và nền kinh tế ở đây phát triển như thế nào qua các nội dung dưới đây. Sau khi Cô- lôm- bô tìm ra châu Mĩ, nhiều nước châu Âu chia nhau chiếm lần lượt lục địa mới này làm thuộc địa. Từ đầu thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII, thực dân Anh đã thành lập 13 thuộc địa của mình ở bắc Mĩ. Đây là vùng đất phì nhiêu, giàu tài nguyên, quê hương lâu đời của ngườ In-đi- an. Trong hai thế kỉ XVII- XVIII, thực dân Anh đã tiêu diệt hoặc dồn người In- đi-an vào phía tây xa xôi. Chúng bắt người dân da đen đưa sang châu Phi làm nô lệ để khai khẩn đất hoang, lập đồn điền. Thực dân Anh bóc lột nặng nề, ngăn cản sự phát triển của 13 thuộc địa. Cư dân ở các thuộc địa mâu thuẫn gay gắt với chính quốc nên họ đã đứng lên đấu tranh với ách thống trị của thực dân Anh. Nếu GV chỉ chiếu hoặc treo lược đồ lên bảng và giới thiệu qua loa mà không hướng dẫn HS khai thác bằng hệ thống câu hỏi trên sẽ đưa HS tiếp nhận nội dung bằng cách gò ép, bản thân các em không tự tìm tòi ra những nội dung kiến thức. Như vậy chỉ có bằng cách đưa những câu hỏi gợi mở trên các em sẽ tự khai thác nội dung và tiếp nhận kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, các em sẽ nhớ lâu, hiểu rõ ngọn nghành của vấn đề. Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử được thể hiện trên bản đồ . Việc học lịch sử nhất thiết phải có bản đồ: “Có bản đồ là có địa lý”. Vậy học địa lý nhất thiết phải có bản đồ. Bản đồ vừa là phương tiện giúp các em khai thác kiến thức và là nguồn tri thức địa lý phong phú, nội dung địa lý đã được mã hoá trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt đó là ngôn ngữ bản đồ. - Thông qua việc sử dụng bản đồ giáo viên hướng dẫn học sinh rèn luyện được các kỹ năng bản đồ. - Đọc tên bản đồ để biết đối tượng lịch sử được thể hiện trên bản đồ là gì. - Hiểu bản đồ, đọc được bản chú giải để biết cái người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ như thế nào, bằng các ký hiệu gì ? Bằng màu sắc gì? ... - Xác định vị trí, phương hướng của các địa điểm trên bản đồ. - Cao hơn nữa giáo viên hướng dẫn học sinh biết dựa vào bản đồ, kết hợp với các kiến thức lịch sử để phân tích, so sánh, giải thích các mối quan hệ của các sự kiện giữa các đối tượng. “ Mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản đồ” Như vậy phương pháp kai thác kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THCS là một việc làm rất quan trọng, rất phong phú và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khoá. Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy – học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học này vào từng bài phải có sự nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Cần tránh khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”...đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá . V. HIỆU QUẢ CỦA SKKN: Qua việc áp dụng phương pháp sử dụng dụng cụ trực quan ở chương trình lịch sử 8- 9 mới tôi nhận thấy kết quả khả quan như sau: - Phần lớn các em đã có ý thức học tập bộ môn và có phương pháp học tập tốt. - Các em đã hiểu rõ và nắm chắc các khái niệm, diễn biến của các chiến dịch. - Đại bộ phận các em đã hình thành được một số kỹ năng lịch sử đơn giản, hiểu, đọc và trình bày diễn biến trên lược đồ, bản đồ. - Cơ bản là các em biết quan sát tranh ảnh, hình vẽ để rút ra kiến thức cần nắm, biết phân tích bản đồ, sự kiện. - Cơ bản là các em biết tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội các kiến thức lịch sử, giải thích, phân tích được các sự kiện lịch sử, biết liên hệ thực tế. * Kết quả cụ thể: Đây là năm thứ 5 áp dụng đổi mới phương pháp dạy học nhưng là năm thứ hai trường áp dụng rộng rãi các phương tiện và khai thác kênh hình trong dạy - học nói chung và đối với bộ môn lịch sử nói riêng. Qua việc áp dụng phương pháp khai thác kênh hình phù hợp với nội dung bài dạy ở một số lớp điển hình để thử nghiệm có kết quả như sau: - Năm học 2013 – 2014 ( trước khi áp dụng): Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu TB trở lên SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % 8a 27 2 7,4 6 22,22 11 70,38 8 23,6 19 70,37 8b 29 1 3,4 4 13,79 15 51,78 9 31,03 15 51,72 9a 30 1 3,3 5 16,6 18 57,4 6 20,00 24 80,00 9b 32 4 12,5 6 18,75 17 52,15 5 16,6 17 84,37 - Năm học 2013 – 2014 ( Sau khi áp dụng): + 100% học sinh có sách giáo khoa, sách bài tập thực hành, sách tham khảo. + Áp dụng nhiều phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan khác nhau đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử. + 90% học sinh thích học bộ môn Lịch sử Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu TB trở lên SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % 8a 31 5 16,12 15 48,33 8 25,88 3 9,67 28 90,33 8b 36 8 22,22 14 38,9 10 27,77 4 11,11 32 88,89 9a 32 5 15,62 12 37,51 13 40,62 2 6,25 27 93,75 9b 33 4 12,12 10 30,30 15 54,54 4 12,12 29 87,88 Như vậy so với phương pháp truyền thống thì hiệu quả của phương pháp khai thác kênh hình phù hợp trong các tiết dạy mang lại hiệu quả cao. C . KẾT LUẬN : I. KẾT LUẬN - Việc khai thác kênh hình trong giảng dạy lịch sử là một trong những phương pháp không thể thiếu được trong hoạt động dạy học. Bằng phương pháp khai thác kênh hình GV sử dụng tốt nhất giúp học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình học tập. - Việc khai thác kênh hình trong giảng dạy cần phải có sự lựa chọn cho phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, đặc biệt tạo ấn tượng, giúp học sinh khắc sâu, nhớ kỹ, tái hiện lại những kiến thức đã học. - Về phương pháp sử dụng: phải sử dụng tinh tế, khéo léo phải đảm bảo tính trực quan, vừa đảm bảo tính khoa học. Điều đáng lưu ý là việc khai thác dù sinh động đến đâu cũng không thể giúp học học tốt nếu thiếu sự chỉ đạo tận tình của giáo viên bộ môn. Vậy với cương vị là người chỉ đạo, hướng dẫn, người giáo viên phải luôn tác động ý thức học tập của các em, phải khơi dậy trong các em sự tìm tòi, ham hiểu biết, sẵn sàng khám phá khoa học có như thế mới đem lại hiệu quả Điều cuối cùng là muốn thực hiện tốt phương pháp khai thác kênh hình trong giảng dạy lịch sử, đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà: có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh sáng tạo đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá . II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN: Khai thác kênh hình tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dẽ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu. Kênh hình có nhiều loại. Mỗi loại lại có cách sử dụng riêng, nhưng phải chú ý các nguyên tắc cơ bản sau: 1/ Phải căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, nội dung và hình thức của các loại bài học để lựa chọn kênh hình cho thích hợp, không nên dùng quá nhiều kênh hình cho một tiết dạy. 2/ Phải có phương phương pháp thích hợp đối với mỗi loại kênh hình ( Như đã nêu ở trên). 3/ Trước khi sử dụng cần phải giải thích: Kênh hình này nhằm mục đích gì? Giải quyết vấn đề gì? Nội dung gì? trong bài học. 4/ Biết vận dụng, sử dụng khai thác kênh hình tới các phương pháp dạy học khác: như nêu vấn đề, mô tả, diễn giải...cho nhuần nhuyễn, đạt hiệu quả cao. * Điểm khác biệt với phương pháp sử dụng khai thác kênh hình trước đây là giáo viên phải biết hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức qua các tranh ảnh, bản đồ, lược đồ đồng thời qua việc sử dụng các tranh ảnh, bản đồ, lược đồ ta phải rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cần thiết: Kỹ năng sử dụng bản đồ, sử dụng tranh vẽ, biểu đồ, kỹ năng thu thập tư liệu qua sách tham khảo... III. DỰ KIẾN VỀ CẢI TIẾN CẤU TRÚC THỜI GIAN TỚI. Với đề tài này tôi đã nghiên cứu, vận dụng từ năm học 2013 – 2014 đến nay và thấy kết quả rất khả quan. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chỉ với tư cách cá nhân và chỉ có sự tham khảo đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp trong trường nên chắc chắn cũng còn nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong có sự giúp đỡ, xây dựng của các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để đề tài thêm hoàn thiện, có hiệu quả, nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử nói riêng và góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới PPDH và thực hiện Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và dạy học; Hưởng ứng phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, và cuộc vận động “ Hai không” với 4 nội dung của Bộ giáo dục và Đào tạo đang phát động. IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ. 1. Đối với phòng GD. Cần tham mưu với các cấp chính quyền để tạo điều kiện cho trường được xây thêm phòng học, phòng đa chức năng phục vụ cho những môn học. - Hỗ trợ để trường mua sắm thêm các trang thiết bị phục vụ dạy học như: Máy vi tính, hệ thống máy chiếu. 2. Đối với BGH nhà trường. BGH cần tổ chức tiến hành kiểm tra đánh giá một cách thường xuyên trong suốt năm học. Tất cả các giáo viên trong nhà trường đều phải được kiểm tra giờ dạy nhiều lần và kiểm tra giờ dạy của tất cả các môn đặc biệt kiểm tra việc sử dụng đồ dùng và hiệu quả của việc sử dụng của giáo viên. Hiệu trưởng có thể chọn các hình thức kiểm tra phù hợp với đối tượng và kế hoạch đã đề ra làm sao để có những thông tin chính xác nhất nhằm giúp cho giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh và khuyến khích giáo viên áp các phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học để đáp ứng khả năng học tập của tất cả các đối tượng học sinh trong lớp. Chỉ đạo bộ phận thư viện, thiết bị bố trí, sắp xếp các thiết bị phương tiện khoa học, tiện lợi để đáp ứng được nhu cầu sử dụng các thiết bị của giáo viên một cách tốt nhất. 3. Đối với Giáo viên - Có ý thức tự học, tự rèn, GV phải biết sử dụng phương tiện, đồ dùng phù hợp với nội dung, mục tiêu bài học và phải chú trọng cả 3 mặt: Kiến thức, kĩ năng, thái độ. - Tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn do trường và cấp trên tổ chức, tham gia các lớp bồi dưỡng để nâng cao tay nghề cũng như khả năng sử dụng các kênh hình trong dạy học lịch sử nói riêng và các môn học nói chung. Minh Châu, ngày 10 tháng 11 năm 2015 Người thực hiện Ngô Thị Thoan TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Sách giáo khoa lịch sử. 2/ Sách giáo viên lịch sử 9. 3/ Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên. 4/ Sách bài tập lịch sử 9. 5/ Trao đổi kinh nghiệm giảng dạy ( Có thể là hình vẽ được giáo viên chuẩn bị trước, (như hình vẽ minh hoạ các sự kiện lịch sử , ...) Đối với hình vẽ: Ta cần cho học sinh tiến hành theo các bước sau: - Đọc tên và cho biết các sự kiện lịch sử trên hình vẽ . - Tìm hiểu mốc thời gian diễn ra sự kiện lịch sử, địa phương diễn ra sự kiện đó. - Rút ra nguyên nhân ý nghĩa, bài học lịch sử từ sự kiện đó.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_khai_thac_kenh_hinh_trong.doc