Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng các phương tiện dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Chúng ta, ai cũng biết rằng giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã hội loài người. Nhiệm vụ của giáo dục là hình thành thế hệ trẻ được phát triển toàn diện, trang bị kiến thức, hiểu biết khoa học văn hóa xã hội, góp phần vào sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Đồng thời, giáo dục cho học sinh tự hoàn thiện mình về phẩm chất đạo đức và các mối quan hệ xã hội. Trong đó bộ môn lịch sử có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, giúp thế hệ sau hiểu được những gì đã diễn ra trong quá khứ để hướng tới sự phát triển trong tương lai, biết được dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu đời , nhân dân ta rất coi trọng lấy lịch sử để giáo dục thế hệ trẻ. Trong các câu truyện cổ tích, thần thoại, ca dao có nhiều yếu tố của tri thức lịch sử, phản ánh nhiều sự kiện lớn của công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Lịch sử dòng họ, địa phương (xã, huyện, tỉnh, miền) ra đời từ khá lâu, có tác dụng không nhỏ vào việc giáo dục truyền thống, lòng tự hào và trách nhiệm đối với quê hương, Tổ quốc như Bác Hồ đã từng nói:

Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam

Hiểu biết để trân trọng và gìn giữ những thành quả mà cha ông để lại, phải “ôn cố tri tân” (nhắc cái cũ để biết cái mới), sống có trách nhiệm hơn là nhiệm vụ của thế hệ trẻ hôm nay.

doc 22 trang SKKN Lịch Sử 16/10/2025 70
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng các phương tiện dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng các phương tiện dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng các phương tiện dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông
 theo dõi sách giáo khoa, vừa quan sát lược đồ và gợi mở:
	Đợt 1: Ta tấn công vào đâu, kết quả ra sao? Đợt 2: Quân ta tiến công tiêu diệt căn cứ nào? Đợt 3: Quân ta tấn công vào đâu, kết quả ra sao?
	Sau khi học sinh trao đổi, phát biểu ý kiến, giáo viên cho học sinh xem Slide mà giáo viên đã chuẩn bị trên màn hình.
	Cuối cùng, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nói lên những suy nghĩ của bản thân về cuộc chiến đấu của ta ở Điện Biên Phủ (tính chất gay go, ác liệt, tinh thần chiến đấu của quân ta ...)
 Một ví dụ khác nữa khi sử dụng bản đồ trong bài dạy lịch sử lớp 12 như ở bài 18 - Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1950). Giáo viên sử dụng lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947 (mục 1 của phần III) và lược đồ chiến dịch Biên giới thu- đông 1950 (mục 2 của phần IV).
 Đối với việc sử dung lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947 ở mục 1, trước tiên giáo viên giới thiệu cho học sinh quan sát lược đồ và chỉ rõ các kí hiệu thể hiện trên lược đồ để học sinh nắm rõ. Khi giới thiệu khái quát lược đồ giáo viên trình bày âm mưu, kế hoạch của địch và quân dân ta chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc như thế nào bằng các câu hỏi gợi mở:
Tại Bắc Cạn ta đã đánh địch như thế nào? Trên đường số 4, ta giành thắng lợi lớn ở đâu? Trên Sông Lô, quân ta đã chiến thắng như thế nào? Hai gọng kìm đông, tây của địch có khép lại được không?
Sau khi học sinh trao đổi và phát biểu ý kiến, giáo viên lược thuật diễn biến chính của chiến dịch trên lược đồ.
Đối với chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950 giáo viên cũng giới thiệu khái quát lược đồ (kí hiệu, hệ thống phòng ngự của địch, âm mưu của chúng) rồi hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ và gợi mở để học sinh nhận xét:
- Tại sao mở màn chiến dịch ta lại tấn công vị trí Đông Khê đầu tiên?
- Khi bị ta tấn công, địch rơi vào tình trạng bị động và có âm mưu như thế nào?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên dựa vào lược đồ tường thuật diễn biến chiến dịch. Lược thuật song, giáo viên có thể yêu cầu một học sinh lên tường thuật lại để cả lớp cùng theo dõi.
	Việc sử dụng bản đồ bằng phương tiện như trên đã có tác dụng thu hút sự chú ý của học sinh, là điều kiện phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Đó là yếu tố cần có, còn hệ thống câu hỏi khéo léo của giáo viên đã kích thích, tạo nhu cầu được nói ra những hiểu biết của bản thân học sinh cho cô giáo và các bạn nghe làm được điều đó giờ học mới đạt yêu cầu. Bản đồ thực sự là một công cụ thiết thực để khai thác bài giảng. Nếu không có bản đồ, học sinh không chú ý, chưa thích nghe giảng và tham gia bài giảng. Nếu không hệ thống câu hỏi, bản đồ chỉ còn có vai trò minh họa. 
2. 3. 3. Sử dụng phim video: 
 	Phim video có nội dung lịch sử là những phương tiện trong dạy học lịch sử có hiệu quả cao. Trước hết chúng phong phú về nội dung, kết hợp chặt chẽ giữa hình ảnh, lời nói với âm nhạc, tác động vào các giác quan của học sinh, cung cấp một khối lượng thông tin lớn, hấp dẫn, không một nguồn kiến thức nào sánh kịp. Hình ảnh, màu sắc, âm thanh tạo cho học sinh biểu tượng sinh động về quá khứ, làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng với sự kiện. Điều này góp phần chống việc hiện đại hóa lịch sử. Tuy nhiên không phải bài học nào giáo viên cũng có thể sử dụng phương tiện dạy học này, cũng không thể sử dụng một cách tùy tiện không phù hợp với nội dung và thời gian của tiết học. Theo tôi nên có sự chuẩn bị như sau:
 	Thứ nhất: Chuẩn bị các đoạn video tư liệu 
 	Trải qua quá trình dạy học trên lớp, giáo viên sẽ biết được bài nào cần thiết sử dụng phương tiện dạy học này. Giáo viên có thể tìm kiếm tư liệu phim lịch sử trên internet hoặc các đĩa tư liệu dạy học lịch sử do nhà xuất bản giáo dục phát hàn phát hành đảm bảo tính chính xác và khoa học. Sau đó giáo viên lưu file, xắp xếp thêo bài học, khối học cho phù hợp để phục vụ nội dung giảng dạy.
 	Thứ hai: Sử dụng các đoạn video vào tiết học cụ thể
Ví dụ: Khi dạy bài 20(Lich sử 10)- Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X- XV mục 3- nghệ thuật giáo viên có thể giới thiệu nghệ thuật múa rối nước để các em thấy được đây là nghệ thuật đặc sắc của dân tộc, làm phong phú cho kho tàng nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Bài 9(Lịch sử 11) Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ cách mạng( 1917- 1921), mục 2- từ cách mạng tháng Hai đến Cách mạng tháng Mười, giáo viên giúp các em tìm hiểu cách mạng tháng Hai đã thực hiện những nhiệm vụ gì và diễn biến Cách mạng tháng Mười. Sau khi các em trình bày, giáo viên nhận xét kết luận và có thể cho các em xem đoạn video của 2 cuộc cách mạng để các em có thể hình dung diễn biến cách mạng những ngày Mười ở nước Nga vĩ đại như thế nào.
 Baì 16- Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám( 1939- 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. khi dạy mục 3- Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử và diễn biến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 giáo viên cho các em xem doạn video về khí thế hào hùng những ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Nếu các em chỉ nắm những sự kiên mà sách giáo khoa thông báo, có lẽ các em sẽ không thể khắc sâu được khí thế sôi sục, diễn biến nhanh nhẹn và ít đổ máu, không thấy được thắng lợi bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc... 
 	Khi dạy bài 17 - Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946 (Lịch sử 12), mục 2 và 3 - Giải quyết nạn đói và nạn dốt của chính quyền sau Cách mạng tháng Tám 1945, giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn video ngắn để các các em có thể hình dung được trong thời điểm đó chính quyền cách mạng vừa thành lập đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những biện pháp giải quyết sáng suốt như thế nào và nhân dân cả nước tích cực hưởng ứng ra sao?
 Hay khi dạy mục 2 - Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 (Bài 23 - Lịch sử 12), về diễn biến của 3 chiến dịch, giáo viên nên để các em chủ động nghiên cứu và lược thuật ngắn gọn trên lược đồ dưới sự hướng dẫn của cô. Học sinh trình bày xong giáo viên có thể cho các em xem đoạn video về trận Buôn Ma Thuột, chiến dịch Đà Nẵng và trận phía đông của chiến dịch Hồ Chí Minh. Với việc xem những đoạn phim ngắn này, các em như được sống trong những ngày tháng oanh liệt hào hùng của dân tộc ta, thấy được sự lãnh đạo tài tình của Đảng, sự mưu trí, dũng cảm của bộ đội ta, tinh thần đoàn kết quyết thắng của cả dân tộc...
 	Cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 - thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Nhưng nếu như học sinh không được xem một đoạn phim tư liệu về chiến thắng Xuân năm 1975, dù chỉ ngắn như tôi giới thiệu thôi, có lẽ học sinh không thể thấy hết ý nghĩa của câu nói trên. 
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
 	Kết quả mà tôi cho là cao nhất khi thực hiện đề tài này chính là thái độ học tập của các em học sinh đối với bộ môn lịch sử.
 Các em đã chăm chú hào hứng lắng nghe tiến trình bài giảng, tiếp nhận hệ thống câu hỏi của cô giáo một cách thích thú, chủ động giải quyết vấn đề, thậm chí còn tỏ thái độ phản ứng với một số tác động từ bên ngoài làm ảnh hưởng đến giờ học, tỏ thái độ trầm trồ thán phục trước nhưng thông tin lịch sử từ bài học, có thái độ mong muốn được trình bày vấn đề giáo viên đưa ra. Thậm chí là những em học khối A lúc đầu không quan tâm để ý đến môn lịch sử nhưng dần dần không còn thờ ơ với môn học, các em đã quan tâm, thích thú, hào hứng mỗi khi đến giờ học lịch sử của cô giáo.
 Một điều đặc biệt nữa là để chuẩn bị nội dung cho tiết học sau, khi phân công nội dung để các tổ chuẩn bị thì các em cực kì hào hứng, tranh giành nhau được chuẩn bị và trình bày kể cả các em học sinh lớp 12 vì ít nhiều các em đã yêu thích học tập môn học này.
 Qua những kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan vào bài giảng như tôi vừa trình bày ở trên, tôi thấy rõ ràng hiệu quả bài giảng của tôi bây giờ so với tôi của 6 năm về trước. Cùng một bài giảng đó (ví dụ như bài 20 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953- 1954) nhưng trước đây với tôi - vai trò là người giảng dạy trước khi lên lớp tôi thực sự áp lực, rất lo lắng, không biết mình phải làm như thế nào để học sinh vừa thích thú vừa dễ nắm được bài? Vì đơn giản, thứ nhất là tôi chưa có nhiều kinh nghiệm, thứ hai là trường mà tôi giảng dạy lại rất khó khăn về đồ dùng dạy học cho giáo viên mà thực tế là không có, thứ ba nữa là đối tượng học sinh dân lập hạn chế rất nhiều nhận thức cũng như ý thức... Vì vậy bài học trở nên nặng nề, học sinh mệt mỏi. 
	Nhưng trải qua một quá trình giảng dạy, đặc biệt là về môi trường làm việc mới có nhiều điều kiện thuận lợi như trường THPT Hà Trung, được học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, sự ủng hộ của học sinh, tôi đã tìm tòi rồi vận dụng vào bài học cụ thể (bài 18, 20) như phẩn trên tôi đã trình bày. Sau tiết học, một em học sinh học khối A ở lớp 12I đã bộc bạch luôn “ Em thực sự thích thú với những tiết học như thế này. Chúng em được chủ động trình bày kiến thức, sự hiểu biết của mình, tiết học trôi qua thật nhanh, không nặng nề mà có thể nhớ bài ngay trên lớp ạ”...
 	Kết quả cụ thể của việc sử dụng đồ dùng trực quan để đạt hiệu quả cao trong giờ lịch sử ở trường phổ thông đó chính là tỉ lệ học sinh giỏi, khá tăng lên , số học sinh trung bình giảm xuống, không có học sinh yếu kém.
 	Kết quả cụ thể: 
* Lớp 12I (lớp ban A trong khối)
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu - Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
43
18
41.86
20
46.51
5
11.63
Không
* Lớp 11A(lớp ban A trong khối)
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu - Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
45
17
40.50
20
47.60
5
11.90
Không
* Lớp 10B(lớp ban A trong khối)
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu - Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
45
20
44.4
20
44.4
5
11.2
Không
3.1. Kết luận
 Do đặc điểm của việc học tập môn lịch sử - không trực tiếp quan sát các sự kiện - nên phương pháp trực quan có ý nghĩa quan trọng. Có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau, song đều có tác dụng nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.
 Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật.
 Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh. 
 3. 2. Kiến nghị.
	Đồ dùng trực quan còn có vai trò rất lớn trong việc nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh chúng ta thu nhận bằng trực quan. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu nhận đươc bằng trực quan.
 	Bên cạnh đó, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ánh, minh họa như thế nào. Các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. 
Đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó là chiếc “cầu nối” giữa quá khứ với hiện tại. Đồ dùng trực quan có một vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong dạy lịch sử như vậy, nhưng làm thế nào để nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng đồ dùng trực quan trong mỗi tiết học thì không phải giáo viên nào cũng làm được và không phải tiết học nào cũng làm được. Tôi nghĩ mỗi giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trong mỗi tiết dạy. Đặc biệt, hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, thì việc giảng dạy ở bộ môn lịch sử có nhiều thuận lợi, không những soạn giáo án điện tử ở những bài có nội dung phù hợp, còn những bài không cần thiết soạn trên powerpoint thì chúng ta kết hợp dạy truyền thống vừa giới thiệu tranh ảnh hay một đoạn video hoặc diễn biến của một trận đánh, một chiến dịch trên lược đồ mà có sử dụng máy chiếu. Hay nói cách khác là sử dụng đồ dùng dạy học bằng phương tiện kĩ thuật. Quan trọng hơn nữa là ở những tiết học đó, giáo viên nên để học sinh chủ động tìm kiếm thông tin ở nhà về một số nội dung liên quan đến đồ dùng trực quan mà tôi đã nói ở trên có sự hướng dẫn của giáo viên. Sau đó, các em chủ động trình bày phần chuẩn bị đó trên lớp, có sự nhận xét, góp ý của các bạn và cô giáo.	
	Mỗi người giáo viên có một khả năng, phương pháp riêng trong giảng dạy. Tuy nhiên với đối tượng học sinh trường THPT Hà Trung, tôi thấy cách sử dụng phương tiện kỹ thuật trình chiếu ba loại đồ dùng trực quan cơ bản nói trên đã thực sự giúp các em có hứng thú với bộ môn lịch sử. Từ đó, các em phát huy sự sáng tạo và rèn các kỹ năng thực hành khác. Bởi vậy, bài học lịch sử sẽ thấm vào các em một cách nhẹ nhàng, sâu sắc.
	Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi trong giảng dạy. Thấy các em có hứng thú, hào hứng với môn học, tôi mong muốn việc giảng dạy lịch sử ngày càng tốt hơn. Những ý kiến chủ quan và còn hạn chế, thiếu sót nhưng tôi mạnh dạn trình bày và mong nhận được sự góp ý chân thành từ các đồng nghiệp để đạt mục đích cuối cùng. Đó là nâng cao chất lượng học tập của học sinh và tinh hoa bản săc văn hóa dân tộc được lưu giữ và truyền lại cho các thế hệ sau.
Tài liệu tham khảo
	1 - Phương pháp dạy học lịch sử Tập 1 - 2 GS.TS Phạn Ngọc Liên
PGS.TS Trịnh Đình TùngPGS.TS Nguyễn Thị Côi. NXB Giáo dục, xuất bản năm 2001
	2 - Sách giáo khoa Lịch sử Việt Nam lớp 10-11 - 12. Phan Ngọc Liên, Vũ Dương Ninh , Trần Bá Đệ, Vũ Ngọc Anh, NXB Giáo dục, Xuất bản năm 2002
	3- Câu hỏi trắc nghiệm và nâng cao Lịch sử lớp 10 - 11 - 12.Tác giả: Phạm Văn Hà,Nguyễn Thanh Lường, Đoàn Kiều Oanh. NXB Giáo dục, xuất bản năm 2011
	4 - Hướng dẫn dạy một số chuyên đề về lịch sử văn hóa Thăng Long Hà Nội (sách giáo viên). Tác giả: Phạm Văn Hà (Chủ biên)Hoàng Đăng Định - Nguyễn Đình HuyNguyễn Lân Thắng - Đoàn Kiều Oanh. NXB Giáo dục, xuất bản năm 2014.
	5 - Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử THPT (Phần Lịch sử Việt Nam).Tác giả: Nguyễn Thị Côi (Chủ biên).Nguyễn Thị Thế Bình - Bùi Tuyết Hương. NXB Giáo dục, xuất bản năm 2012.
	6 - Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử THPT (Phần Lịch sử thế giới).Tác giả: Trịnh Đình Tùng (Chủ biên). Nguyễn Mạnh Hưởng - Nguyễn Văn Ninh, xuất bản năm 2012.
Mục lục
1. Mở đầu
11. Lý do chọn đề tài	1
1.2. Mục đích lựa chọn đề tài	2
1.3. Đối tượng nghiên cứu	2
1.4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm	2
1.5. Phương pháp nghiên cứu	2
1.6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu	2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận	4
2.2. Cơ sở thực tiễn	5
2.3. Các giải pháp	7
a. Sử dụng tranh ảnh	7
b. Sử dụng bản đồ	11
c. Sử dụng phim video	15
2.4. Hiệu quả 	18
3. Kết luận, kiến nghị 
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị..

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_cac_phuong_tien_day_hoc_nham_n.doc