Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng có hiệu quả kênh hình khi dạy Bài 11 Tây Âu thời hậu kì Trung đại (Lịch sử lớp 10 cơ bản), nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
Đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nói riêng đang trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay. Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo. Một phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và học sinh phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy, tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học.
Chúng ta đã biết đặc trưng của môn Lịch sử là khơi dậy quá khứ để nhìn nhận hiện tại và hướng tới tương lai. Do đó, việc làm cho quá khứ sống lại chính xác, sinh động là yêu cầu cần thiết. Thế nhưng, trong học tập lịch sử, học sinh không thể trực tiếp quan sát đối tượng nghiên cứu như trong khoa học tự nhiên, không thể dựng lại hiện thực quá khứ khách quan ở trong phòng thí nghiệm. Do vậy, để đảm bảo tính cụ thể của lịch sử đòi hỏi sự truyền đạt sinh động của giáo viên và các phương tiện trực quan để giúp cho học sinh có biểu tượng về quá khứ. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông có vai trò vô vùng quan trọng. Trên thực tế việc dạy học mới chỉ dừng lại ở "lý thuyết suông". Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều nhưng chủ yếu là do giáo viên chưa nhận thức được vai trò và ý nghĩa quan trọng của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử. Hơn nữa, đặc trưng của bộ môn lịch sử là không lặp lại như cũ, không thể tái tạo được lịch sử trong phòng thí nghiệm như khi học tập nghiên cứu về hiện tượng tự nhiên. Vậy làm sao để hiểu đúng lịch sử, đảm bảo được tính khách quan của nó, đồng thời hạn chế tình trạng hiện đại hóa lịch sử, đó là vấn đề đang được các nhà sử học quan tâm?.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng có hiệu quả kênh hình khi dạy Bài 11 Tây Âu thời hậu kì Trung đại (Lịch sử lớp 10 cơ bản), nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
ổi, Va-xcô đơ Ga-ma đã tổ chức đoàn thám hiểm qui mô lớn với 4 tàu Ca-ra-ven và 168 thủy thủ rời cảng Li-xbon tiến xuống phía nam châu Phi, tiếp tục lộ trình của Đi-a-xơ trước đây. Khi đến Mũi Xanh thì bị chệch hướng sang phía Tây, tiến tới phía Đông của một châu lục khác mà đoàn không hề biết (châu Mĩ). Tuy vậy đoàn thám hiểm vẫn lập thương điếm (tại Bra-xin ngày nay), sau đó ông điều chỉnh hướng vượt qua được mũi Hảo Vọng ngược lên phía Bắc. (Hình 7 – phụ lục) Ngày 20/5/1498, trải qua nhiều khó khăn, họ đã cập bến Ca-li-cút (Ấn Độ). Giấc mơ phát hiện đường biển sang Ấn Độ như thần thoại cuối cùng đã được thực hiện. Từ Ca-li-cút, đoàn thám hiểm đã theo đường cũ trở về Bồ Đào Nha. Khi về, đoàn chỉ còn 55 thủy thủ, nhưng đầy ắp vàng, bạc châu báu, hương liệu quý. Sau đó, người Bồ Đào Nha đã chiếm giữ độc quyền con đường này 18 năm liền và tổ chức nhiều cuộc viễn chinh mới. Đồng thời với các cuộc thám hiểm của người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha cũng tiến hành nhiều cuộc thám hiểm lớn. Trái ngược với người Bồ Đào Nha thám hiểm vùng đất mới bằng cách đi xuống phía nam châu Phi, thì người Tây Ban Nha lại di chuyển theo hướng tây nam. Xuất phát từ giả thuyết trái đất hình cầu tròn, họ đặt mục tiêu hướng về phía tây để sang phương Đông giàu có. Tiêu biểu là cuộc hành trình của C.Cô-lôm-bô và Ma-gien-lan. Ngày 2/8/1492, C. Cô-lôm-bô (1451-1506) đã dẫn đầu đoàn thuỷ thủ 90 người với 3 chiếc tàu rời cảng Pa-lê-xơ (Tây Ban Nha) đi về hướng Tây. Sau hai tháng lênh đênh trên Đại Tây Dương gặp nhiều sóng to gió lớn, ngày 28/10/1892 ông đã đến một số đảo thuộc vùng biển Ca-ri-bê (Châu Mĩ), nhưng ông tưởng đây là miền “Đông Ấn Độ” (Hình 8 – phụ lục). Quay trở về Tây Ban Nha ông được phong chức Thượng tướng hải quân, tổng đốc Ấn Độ. Cô-lôm-bô được coi là người đầu tiên phát hiện ra châu Mĩ, nhưng do tưởng lầm là Ấn Độ nên châu Mĩ ngày nay không mang tên ông mà mang tên một nhà thám hiểm khác. Sau những cuộc phát kiến địa lí của C. Cô-lôm-bô, người Tây Ban Nha vẫn không hài lòng với những gì mình thu được nên vẫn tiếp tục các cuộc hành trình thám hiểm. Ma-gien-lan (1480-1521), sau khi biết vùng đất mới mà Cô-lôm-bô phát hiện không phải là Ấn Độ nên ông tiếp tục cuộc hành trình đó (Hình 9 – phụ lục). Ma-gien-lan là nhà hàng hải người Bồ Đào Nha, nhưng lại phục vụ trong vương triều Tây Ban Nha. Được sự giúp đỡ của vua Tây Ban Nha, ông tổ chức đoàn thám hiểm đi vòng quanh trái đất. Ngày 20/9/1519 Ma-gien-lan dẫn đầu đoàn thám hiểm gồm 5 chiếc tàu với 265 thủy thủ rời cảng Xan Lu-các, bắt đầu cuộc hành trình vượt Đại Tây Dương đầy mạo hiểm. Tháng 10/1519, đoàn tới được bờ biển Bra-xin, rồi men theo bờ biển phía đông Nam Mĩ tới vịnh Xan-ta Lu-xi-a (nay là thành phố Ri-ô đờ gia-ne rô). Do cuộc hành trình quá dài, lại thiếu lương thực nên nhiều thủy thủ nổi loạn đòi quay trở về, nhưng ông vẫn kiên quyết tiếp tục cuộc hành trình. Ông đã kết án treo cổ 40 thủy thủ vì nổi loạn và làm hoang mang những người khác. Khi đến cực nam châu Mĩ đoàn chỉ còn 4 tàu vì 1 tàu bỏ trốn. Sau khi vượt qua cực nam Châu Mĩ (sau này được gọi là eo biển Ma-gien-lan) đoàn thám hiểm đến một đại dương mới. Tại đây, thấy gió lặng, sóng yên, khác hẳn với bão tố liên miên của vùng biển nam Mĩ, nên ông đặt là biển Thái Bình Dương. Tháng 4/1521, đoàn đến được Phi-líp-pin và đụng độ với thổ dân, Ma-gien-lan cùng 22 thủy thủ đã hi sinh. Hoan-xe-ba-xti-an Đơ En-ca-nô lên thay chỉ huy đoàn thám hiểm, lúc này chỉ còn 2 tàu với 113 thủy thủ. Tháng 11/1521, khi đoàn tới đảo Mô-lúc thì gặp bão lớn nên chỉ còn 1 tàu với 33 thủy thủ. Năm 1522, đoàn thám hiểm tiến về phía nam và tới Bru-nây, vòng qua nam In-đô-nê-xi-a vào Ấn Độ Dương vượt qua mũi Hảo Vọng, men theo bờ biển phía tây châu Phi về tới Tây Ban Nha ngày 8/9/1522, lúc này đoàn chỉ còn 18 thủy thủ với một tàu chở đầy hương liệu của phương Đông. Như vậy, cuộc hành trình vòng quanh trái đất lần đầu tiên được hoàn thành đã làm rạng rỡ tên tuổi của nhà thám hiểm Ma-gien-lan. Nó chứng minh một cách thuyết phục nhất về quả đất hình cầu tròn. “Ông đã tặng cho nhân loại những hiểu biết mới và chiến công đó của ông đã vượt lên tất cả mọi chiến công. Ông đã biến những gì mà hàng trăm thế hệ trước chỉ coi là giấc mơ thì nay đã thành hiện thực” [5]. - Phương pháp sử dụng: Lược đồ trên, nói về những cuộc phát kiến địa lí của những nhà thám hiểm nổi tiếng châu Âu cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI. Để học sinh phát huy được tính tích cực chủ động, giáo viên cần thực hiện tốt các bước sau: Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ, đồng thời giúp các em phân biệt những loại mũi tên chỉ từng cuộc hành trình của các nhà thám hiểm. Bước hai: giáo viên yêu cầu học sinh kết hợp với nội dung trong sách giáo khoa và lên bảng thuyết trình các cuộc phát kiến địa lí. Trong quá trình học sinh giới thiệu về các cuộc phát kiến địa lí giáo viên có thể gợi mở một số câu hỏi để cuốn hút học sinh lắng nghe và lĩnh hội kiến thức. Ví dụ: Tại sao cuộc hành trình đến được cực nam châu Phi của người Bồ Đào Nha lại diễn ra trong một thời gian dài như vậy? Tại sao người Tây Ban Nha lại chọn hướng đi sang phía tây Đại Tây Dương mà không đi theo con đường người Bồ Đào Nha đã đi?.... Bước ba: Sau khi học sinh đã thuyết trình xong giáo viên yêu cầu học sinh khác nhận xét bổ sung. Cuối cùng, giáo viên nhận xét, đồng thời để học sinh khắc sâu nội dung vừa học giáo viên treo lên bảng, bảng biểu yêu cầu học sinh hoàn thành cột B sao cho phù hợp với nội dung cột A: A B Năm 1487 B. Đi-a-xơ Năm 1492 C. Cô-lôm-bô Năm 1497 Va-xcô đơ Ga-ma Năm 1519-1522 Ph. Ma-gien-lan Sau khi kết thúc nội dung trên, giáo viên đặt câu hỏi: Các cuộc phát kiến địa lí đã để lại những hệ quả gì? 2.3.3.3. Đối với hệ quả của cuộc phát kiến địa lí: Sau khi đã học sinh thảo luận và trả lời giáo viên nhận xét và kết luận, các cuộc phát kiến địa lí đã để lại những hệ quả to lớn: + Đem lại hiểu biết mới về trái đất, về những con đường mới, dân tộc mới. Thị trường thế giới được mở rộng. (Giáo viên minh họa bằng lược đồ) (Hình 10 – phụ lục) + Thúc đẩy nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến dẫn tới sự xác lập của chủ nghĩa tư bản. + Nảy sinh quá trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ. (Giáo viên minh họa bằng tranh ảnh) (Hình 11 – phụ lục) 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Để đánh giá hiệu quả của đề tài tôi chọn lớp 10A1, 10A5 năm học 2018-2019 làm lớp thực nghiệm. Sau các tiết dạy tôi có sử dụng phiếu điều tra về mức độ hứng thú và kết quả học tập của học sinh: + Kết quả phiếu điều tra về hứng thú học tập của học sinh: Năm học 2018-2019 Lớp Mức độ 10A1 10A5 Số lượng % Số lượng % Thích 23 56,09 22 55,00 Bình thường 12 29,26 13 32,50 Không thích 6 14,63 5 12,50 Tổng 41 100 40 100 + Phiếu điều tra kết quả học tập của học sinh: Em hãy nối cột A và B sao cho đúng? (Lưu ý: Nối đúng mỗi ý được 2,5 điểm, thời gian 5 phút) A B Năm 1487 B. Đi-a-xơ Đi vòng quanh thế giới bằng đường biển Năm 1492 C. Cô-lôm-bô Đến được cực Nam của châu Phi Năm 1497 Va-xcô đơ Ga-ma Tìm ra châu Mĩ Năm 1519-1522 Ph. Ma-gien-lan Đến được Ca-li-cút của Ấn Độ Kết quả thu được là: Năm học 2018-2019 Lớp Xếp loại 10A1 10A5 Số lượng % Số lượng % Giỏi 13 31,70 12 30,00 Khá 17 41,63 16 40,00 Trung bình 8 19,51 8 20,00 Yếu - kém 3 7,31 4 10,00 Tổng 41 100 40 100 Qua các bảng thống kê ta thấy, đã có sự thay đổi lớn về hứng thú cũng như kết quả học tập của học sinh. Trước khi áp dụng phương pháp sử dụng, khai thác kênh hình vào giảng dạy bài Tây Âu thời hậu kì Trung đại số học sinh có hứng thú học tập ở lớp 10B1 và 10B3 năm học 2017-2018 chỉ chiếm 15%, số không thích học chiếm tới 48,9%. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp sử dụng, khai thác kênh hình vào giảng dạy tại lớp 10A1 và 10A5 số học sinh hứng thú với môn học tăng lên rõ rệt, chiếm tỉ lệ trên 55%, số không thích học cũng giảm xuống còn 13,5%. Mặt khác, trong giờ học khi dạy bằng phương pháp mới này học sinh cũng học tích cực, chủ động hơn, các em hăng hái tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài làm cho giờ học lịch sử trở nên sôi nổi hơn. Vì vậy kết quả học tập của học sinh ở cả 2 lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác nhau rõ rệt. Ở lớp 10B1 và 10B3 khi chưa áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy thì số học sinh khá, giỏi chỉ chiếm 33%; yếu, kém chiếm tỉ lệ hơn 24%. Nhưng khi áp dụng phương pháp mới vào trong quá trình giảng dạy ở lớp 10A1 và 10A5 năm học 2018-2019 số học sinh khá, giỏi tăng lên, chiếm hơn 71%, đặc biệt số học sinh xếp loại yếu, kém giảm mạnh chỉ còn 8,64%. Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc khai thác kênh hình trong dạy học là rất cần thiết, đặc biệt đối với môn lịch sử. Nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao, đây cũng là một trong những nội dung thể hiện sự đổi mới phương pháp dạy học, làm cho kết quả học tập bộ môn không ngừng được nâng cao. Điều đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy học là một định hướng đúng đắn của Đảng và nhà nước. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận. Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học lịch sử nói riêng là vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi nhận thấy người giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề, phải thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn, phải có năng lực sư phạm và biết kết hợp khéo léo các phương pháp, phương tiện nhằm tổ chức tốt việc nhận thức cho học sinh. Thực tiễn chứng minh rằng, học sinh gắn việc yêu thích môn lịch sử với phương pháp dạy của giáo viên. Ngoài những nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, đồ dùng trực quan có sẵn và đồ dùng trực quan tự tạo sẽ minh họa thêm cho học sinh thấy rõ được ý nghĩa, mục đích sâu sắc của bài học lịch sử và đặc biệt sẽ giúp học sinh nhớ lâu những kiến thức lịch sử. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong bài giảng này, nếu giáo viên tích cực tìm tòi, sáng tạo về cách làm lược đồ, sơ đồ sự kiện lịch sử, bảng thống kê sự kiện... thì sẽ có tác dụng tốt, có thể áp dụng trong tất cả các trường THPT. Có làm được như vậy tôi tin chắc học sinh sẽ ham học môn Lịch sử, làm tăng hiệu quả của giờ dạy trên lớp, từ đó chất lượng bộ môn được nâng cao. Với mỗi giáo viên lịch sử, việc kết hợp kĩ năng khai thác kênh hình sách giáo khoa với ứng dụng CNTT phục vụ cho giảng dạy, sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Điều đó, không những hoàn thiện kĩ năng sư phạm, nâng cao được trình độ chuyên môn của người thầy mà còn phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập bộ môn. Với kinh nghiệm giảng dạy từ thực tế là các giờ học và tính hiệu quả của nó, tôi xin chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Sử dụng có hiệu quả kênh hình khi dạy Bài 11: Tây Âu thời hậu kì Trung đại (lịch sử lớp 10 cơ bản), nhằm phát huy tính tích cực của học sinh”. Mặc dù phạm vi trình bày và nội dung nghiên cứu hẹp, cụ thể chỉ là một tiết dạy, hệ thống đồ dùng trực quan mà tôi đưa ra có thể là chưa đầy đủ. Song bản thân cũng đã có nhiều cố gắng và cũng mong muốn được góp thêm một số ít kinh nghiệm giảng dạy đối với bài "Tây âu thời hậu kì trung đại" nói riêng và bộ môn lịch sử nói chung. Rất mong nhận được ủng hộ của các thầy cô, và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện. 3.2. Kiến nghị Từ kết quả đạt được bước đầu trong sáng kiến kinh nghiệm và từ thực tiễn dạy học hiện nay, tôi xin phép được đề xuất một vài kiến nghị sau : - Cần có những chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên về cách khai thác và sử dụng kênh hình. - Trong thời gian tới khi biên soạn sách giáo khoa lịch sử nên bổ sung thêm các loại kênh hình và có sách hướng dẫn. - Nhà nước cần đầu tư xây dựng thêm các phòng học bộ môn phù hợp với đặc trưng bộ môn lịch sử. - Giáo viên cần đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với học sinh trong quá trình dạy học như sưu tầm tài liệu trước ở nhà theo định hướng của giáo viên. - Các cấp quản lý phải thực sự quan tâm, tạo điều kiện, động viên khuyến khích giáo viên sử dụng loại tài liệu này; tổ chức các buổi hội thảo, tập trung những giáo viên giỏi, có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề để chung tay sưu tầm, chỉnh lý và biên soạn thành hệ thống tài liệu cần thiết cho cả chương trình và kèm theo các phương pháp sử dụng cho từng đoạn tài liệu một. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Đoàn Ngọc Thanh Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Lê Trọng Thế TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN [1]. Nguyễn Thị Côi - Hướng dẫn sử dụng kênh hình - NXB Đại Học Sư Phạm - Hà Nội - 2013. [2]. Quyết định số 41/2000/QĐ/BGD&ĐT ngày 24/3/2000 của BGD & ĐT. [3]. Đặng Văn Đức - Lí luận dạy học Địa lí - NXB Đại Học Sư Phạm, Hà Nội. [4]. Truyện cổ Ả- Rập( Contes dorient) [5]. Magellan set out - History.com II. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quyết định số 41/2000/QĐ/BGD&ĐT ngày 24/3/2000 của BGD & ĐT 2. Đặng Văn Đức - Lí luận dạy học Địa lí - NXB Đại Học Sư Phạm, Hà Nội. 3. Phan Ngọc Liên - Lịch sử lớp 10 nâng cao - NXB Giáo dục - 2011. 4. Phan Ngọc Liên - Lịch sử lớp 10 - NXB Giáo dục - 2006. 5. Bộ giáo dục và đào tạo - Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học phổ thông - NXB Đại Học Sư Phạm - Hà Nội - 2007. 6. Nguồn một số trang Web trên Internet. 7. “Phương pháp dạy học Lịch sử” (Tập 1), tập 2 NXB giáo dục. 8. Nguyễn Thị Côi - Hướng dẫn sử dụng kênh hình - NXB Đại Học Sư Phạm - Hà Nội - 2013. 9. Dạy học theo chuẩn kiến thức - kĩ năng môn Lịch sử. Tác giả: Trịnh Đình Tùng (Chủ biên) - Nguyễn Mạnh Hưởng - Lê Thị Thu. Nhà xuất bản: Đại học Sư phạm 2010. DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN Họ và tên tác giả: Lê Trọng Thế Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THPT Triệu Sơn 4 TT Tên đề tài SKKN Cấp đánh giá xếp loại (Ngành GD cấp huyện/tỉnh; Tỉnh...) Kết quả đánh giá xếp loại (A, B, hoặc C) Năm học đánh giá xếp loại 1 “Tích hợp chủ quyền biển đảo giảng dạy mục Sự thành lập Liên hợp quốc trong bài Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949) (lịch sử lớp 12) nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh”. Tỉnh C 2014-2015 PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH PHỤC VỤ CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU SKKN Hình 1: Con đường buôn bán qua Tây Á và Địa Trung Hải Hình 2: tàu Caraven Hình 3: La bàn Hình 4: Hải đồ vùng Địa Trung Hải [7] Hình 5: Lược đồ các cuộc phát kiến địa lí Hình 6: Lược đồ hành trình phát kiến địa lí của B. Đi-a-xơ Hình 7: Lược đồ hành trình phát kiến địa lí của Vaxcô Đơ Gama Hình 8: Lược đồ hành trình phát kiến địa lí của C. Côlômbô Hình 9: Cô-lôm-bô tuyên bố chủ quyền thế giới trên vùng đất mới Hình 10 : Lược đồ thị trường thế giới được mở rộng Hình 11: Ảnh minh họa: Cảnh buôn bán nô lệ MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TIẾT DẠY THỰC NGHIỆM Hình 12: Học sinh lớp 10A1 tích cực xây dựng bài Hình 13: Học sinh lớp 10A5 tích cực xây dựng bài Hình 14: Học sinh lớp 10A1 trình bày các cuộc phát kiến địa lí Hình 15: Học sinh lớp 10A5 kiểm tra sau tiết dạy thực nghiệm Hình 15: Bài kiểm tra sau tiết dạy thực nghiệm lớp 10A5
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_co_hieu_qua_kenh_hinh_khi_day.doc

