Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng công nghệ thông tin để dạy kênh hình môn Lịch sử ở trường THCS
Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phải ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình.
Đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giaó dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng công nghệ thông tin để dạy kênh hình môn Lịch sử ở trường THCS

ều giáo viên ôm đồm, muốn đưa nhiều dạng thông tin Multimedia để trình chiếu cùng một lúc trên các slide khiến cho bố cục trình bày rối rắm và các thông tin đến với học sinh bị nhiễu loạn, khó nhận ra đâu là kiến thức cơ bản, trọng tâm. Từ đó, những kiến thức còn đọng lại nơi học sinh sau giờ học không rõ ràng, thiếu tính hệ thống và không bền vững. - Nhiều bài giảng điện tử do giáo viên lạm dụng về thời gian trình chiếu đã không đảm bảo về chấtt lượng giờ học, không bao quát được tình hình lớp học, tình trạng học sinh ghi chép bài không kịp hoặc không ghi chép nội dung bài học vẫn xảy ra. 3.2 QUY TRÌNH XÂY DỰNG MỘT BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ. Để đạt được một bài học lịch sử hiệu qủa, GV cần tuân thủ quy trình xây dựng BGĐT gồm các bước sau: - Xây dựng giáo án: bao gồm chuẩn bị nội dung, sưu tập tư liệu điện tử. - Thiết kế BGĐT: sử dụng phần mềm Powerpoint để thiết kế bài giảng. - Kiểm định sự hoàn thiện của BGĐT: trình chiếu thử, phát hiện lỗi. a/ Xác định rõ mục đích yêu cầu của bài học b/ Xác định những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà học sinh cần nắm vững trong tiết học. c/ Sưu tầm, chọn lọc các nguồn tư liệu viết, tranh ảnh, phim tư liệu, băng ghi âm có liên quan đến những kiến thức cơ bản đã được xác định. Xử lý, số hoá các tư liệu đã chọn lọc sau đó đóng gói vào trong một Folder và đặt file name phù hợp (Ví dụ: Data bai 15 ) để dễ tìm và nhớ đưa kèm theo khi ghi BGĐT vào CD. 4. KHAI THÁC TƯ LIỆU QUA INTERNET PHỤC VỤ CÁC BÀI GIẢNG LỊCH SỬ Những tư liệu được lựa chọn sẽ làm cho bài giảng trở nên phong phú, sống động, hấp dẫn hơn, HS sẽ tiếp thu bài giảng một cách tự nhiên. Internet là một thành tựu có tính đột phá của nhân loại cuối thế kỷ XX mà lịch sử sẽ ghi nhận có vai trò tương đương với việc phát minh ra lửa, máy hơi nước, điện năng hay năng lượng hạt nhân, là một công cụ vô cùng hiệu quả cho việc khai thác tư liệu phục vụ cho các bài giảng lịch sử. Nội dung của phần này sẽ tập trung trả lời các câu hỏi: Tại sao Internet lại là công cụ hiệu quả cho việc khai thác tư liệu phục vụ cho bài giảng Lịch sử? Nên tập trung khai thác những loại tư liệu nào xung quanh nội dung của bài giảng cho phù hợp? Để làm được điều đó người GV phải làm việc gì và cần có yêu cầu gì? 4.1. Khai thác guồn tư liệu trên Internet cho các bài giảng lịch sử a. Về dung lượng: những số liệu, báo cáo thống kê cho thấy cho đến cuối thế kỷ XX, Internet đã trở thành kho thông tin khổng lồ và phong phú nhất trong lịch sử nhân loại với hàng trăm triệu websites liên quan đến mọi lĩnh vực, ngõ ngách của đời sống xã hội. Có nhà nghiên cứu đã từng khẳng định rằng xét về khối lượng, thông tin trên Internet đã vượt qua rất xa so với tổng khối lượng thông tin được in thành sách của loài người kể từ khi phát minh ra chữ viết cho đến năm 1990. Khối lượng đó lại được tăng lên với tốc độ chóng mặt hàng năm. b. Về khả năng truy cập: Internet có ưu thế tuyệt đối, trừ một số ít thông tin được bảo vệ nhằm mục đích thương mại hoặc bí mật, mỗi người sử dụng Internet đều có thể truy cập bất kỳ một thông tin nào trên Internet dù thông tin đó được đặt ở Mỹ, Nga, Châu Âu, Châu Phi, Nhật Bản hay Việt Nam mà không phải rời khỏi bàn làm việc của mình. Đó là điều không thể mơ ước đối với các nguồn tin khác như thư viện, các bộ sưu tập hay thậm chí cả báo chí. c. Về loại hình: Internet cung cấp thông tin ở dạng văn bản, hình ảnh, âm thanh hay thậm chí là cả dạng phim tư liệu hay video. Khả năng này cho phép khai thác và bổ sung những tư liệu một cách phong phú hơn rất nhiều so với thông tin được in trên giấy thuần túy bằng văn bản. d. Về nội dung: tính đa dạng, phong phú và dễ truy cập tạo cơ hội cho người giáo viên có thể chọn lọc những tư liệu thích hợp, cô đọng và phù hợp nhất với nội dung, mục đích của từng bài giảng mà không bị lắp lại hay nhàm chán. Vấn đề chọn lọc tư liệu phù hợp sẽ được đề cập sâu hơn trong mục tiếp theo. IV. TIẾT DẠY MINH HỌA Ngày soạn: 17/03/2017 Ngày dạy: 18/03/2017 TIẾT 37, BÀI 27: CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC KẾT THÚC (1953 - 1954) A/ Mục tiêu cần đạt. Kiến thức: - nắm được hoàn cảnh và nội dung của kế hoạch quân sự Nava. - Hiểu được chủ trương kế hoạch của ta trong Đông xuân nhằm phá tan kế hoạch Nava của pháp - Mĩ bằng cuộc tiến công chiến lược đông xuân 53 – 54, đỉnh cao là chiến dịch điện biên phủ. - Nắm được hoàn cảnh và nội dung của hiệp định giơ ne vơ và kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở việt nam và đông dương. - nắm được nguyên nhân thắng lợi ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống pháp. Tư tưởng: - Bồi dưỡng cho HS lòng yêu nước, tinh thần CM, tình đoàn kết DT, đoàn kết quốc tế, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, niềm tự hào dân tộc. Kĩ năng: - Rèn luyện kĩ năng cho HS biết phân tích nhận định, đánh giá âm mưu, thủ đoạn chiến đấu của pháp Mĩ, chủ trương chiến đấu của ta. - Rèn kĩ năng sử dụng lược đồ, bản đồ. * Trọng tâm: Kế hoạch Na va và biện pháp đối phó của ta. B/ Thiết bị dạy học: - Giáo viên: tranh ảnh về cuộc tiến công chiến lược đông xuân và chiến dịch điện biên phủ, lược đồ tiến công chiến lược Đông xuân, bài soạn, tài liệu liên quan. - Học sinh: Sưu tầm bài thơ về chiến dịch ĐBP, Bài soạn, SGK C/ Tiến trình tổ chức dạy học: ổn định tổ chức: Kiểm tra bài cũ: - Nêu ND cơ bản của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của đảng. 3. Giới thiệu bài mới Sau 8 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp suy yếu nghiêm trọng và bế tắc. Để tìm cách đưa cuộc chiến tranh ra khỏi bế tắc, pháp cử Nava sang làm tổng chỉ huy quân đội pháp ở ĐD và một kế hoạch quân sự mang tên Nava ra đời. Vậy nội dung kế hoạch Nava là gì? Ta có chủ trương đối phó ra sao? Diễn biến của chiến dịch ĐBP diễn ra như thê nào? Chúng ta tìm hiểu nội dung bài hôm nay. Dạy và học bài mới: ( Giáo án Power point) V. KẾT QUẢ THỰC HIỆN Nhà trường đã tổ chức huấn luyện cho mọi người cách sử dụng các thiết bị hiện đại, sử dụng phần mềm Power Point và một số phần mềm khác theo đặc trưng của từng bộ môn. Hình thức huấn luyện khá linh động, tùy nội dung hoàn cảnh mà thay đổi, có lúc huấn luyện cho đông đảo tập thể giáo viên, có lúc phải tách ra, huấn luyện từng tổ bộ môn, có lúc lại tổ chức kèm cặp riêng cho một số ít người. Tùy theo đặc trưng của mỗi bộ môn và khả năng của từng giáo viên mà nhấn mạnh hướng dẫn các nội dung khác nhau của CNTT, hoặc các tiện ích khác nhau của các thiết bị dạy học. Kết quả là đến nay, phần lớn giáo viên đã soạn giáo án vi tính một số thầy cô có thể dùng Power Point kết hợp cùng nhiều phần mềm khác để tự soạn giáo án điện tử. Nhiều giáo viên đã biết scan và xử lý ảnh tốt, biết vào Internet tìm kiếm thông tin, tải bản đồ, hình ảnh, hình mẫu đưa vào minh họa trong bài giảng... Nhà trường đã tổ chức được phong trào thi đua giảng dạy bằng phương pháp hiện đại trong phòng Nghe nhìn. Do vậy, tuy chuẩn bị cho một tiết dạy tại phòng Nghe nhìn tốn nhiều thời gian và công sức hơn nhưng giáo viên ở tất cả các bộ môn đều hăng hái đăng ký, nhất là các môn: Văn, tiếng Anh, Sử, Địa. Kết quả từ đầu năm học đến nay đã có 8 tiết dạy bằng phương pháp dạy học mới với việc vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại ở hầu hết các môn học,. Môn Giáo dục công dân tuy khó vận dụng nhưng bước đầu cũng có giáo viên đã soạn được giáo án điện tử để dạy về luật giao thông cho học sinh. Tiết học này đã tạo được hứng thú và sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với các em. Trong thực tế, việc dạy học theo phương pháp hiện đại cũng còn có nhiều vấn đề phải bàn bạc. Có môn học, có bài học thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Nhưng cũng có môn học, có tiết học khó khăn, đạt hiệu quả thấp. Tuy nhiên, nhà trường đã mạnh dạn để cho tất cả mọi người, mọi môn học tích cực thực hiện việc dạy học theo phương pháp này, cốt để giáo viên thành thạo, vượt qua được những e ngại ban đầu. Khi mọi người đều đã có thực tế trong giảng dạy, nhà trường mới tổ chức rút kinh nghiệm. Ban giám hiệu trường THCS Phú Sơn đặt vấn đề vận dụng CNTT trong dạy học là nhằm để nâng cao chất lượng đào tạo. Khảo sát hiệu quả từ phía HS cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của phương pháp multêmedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Phần lớn học sinh đều thích những giờ học trong phòng Nghe nhìn với rất nhiều hình ảnh, âm thanh minh họa đẹp mắt, sinh động đã làm cho các em hứng thú, say mê học tập. Cùng một thời lượng như nhau nhưng số lượng kiến thức và kỹ năng các em thu nhận được lại nhiều hơn, cụ thể, sinh động, sâu sắc và chắc chắn hơn. Số lượng bài tập thực hành của các em cũng được rèn luyện nhiều hơn, thành thục hơn. Hầu như tất cả các giờ học được dạy theo phương pháp này không có một học sinh nào tỏ ra chán nản, lười biếng học tập hoặc học với tâm trạng đối phó, thụ động, mà ngược lại các em đều rất thích thú. Rõ ràng học tập đối với các em đã trở thành một niềm vui lớn. KẾT QUẢ ĐỐI CHỨNG. 1. Năm học 2015-2016 (Chưa áp dụng SKKN). STT LỚP TỔNG SỐ HS GIỎI KHÁ TB YẾU HSG huyện HSG TP 1 9A 34 20 14 0 0 2 0 2 9B 35 10 17 8 0 0 0 1. Năm học 2016-2017 (Áp dụng SKKN). STT LỚP TỔNG SỐ HS GIỎI KHÁ TB YẾU HSG huyện HSG TP 1 9A 39 25 14 0 0 04 01 2 9C 38 10 17 8 0 0 0 - Có 04 học sinh giỏi cấp huyện, trong đó: + 03 giải Ba. + 01 giải Khuyến khích. - Có 01 học sinh đạt giải Khuyến khích cấp thành phố C. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Sự bùng nổ của Công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng và Khoa học công nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền giáo dục phổ thông đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu muốn việc dạy học theo kịp cuộc sống, chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập của học sinh để nâng cao chất lượng đào tạo. Đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới một “xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng đã yêu cầu: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở tất cả các môn học” (Trích Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ Trưởng Bộ GD-ĐT về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001-2005). Đối với môn Lịch sử, bài giảng thường đi kèm với nhiều hình minh họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng hay hình ảnh các vùng kinh tế,diện tích lãnh thổ của vùng văn hóa nào đó... Nếu chỉ trình bày suông, chúng tôi nghĩ cũng chẳng có vấn đề gì cả, nhưng tại sao khi chúng ta đã chấp nhận làm GAĐT chúng ta lại không làm bài tập phong phú hơn? Hiện tại những hình ảnh minh họa cho các nội dung nói trên tương đối nhiều trên Internet.Chúng tôi thiết nghĩ, nếu chỉ cần bỏ chút thời gian mà có được những nội dung, hình ảnh cần minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều này cũng đồng nghĩa với việc giáo viên cần biết cách thức truy cập Internet để lấy thông tin. Tuy nhiên,không phải hình ảnh nào chúng ta lấy từ Internet đều thỏa mãn ý muốn của chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta cần một bản đồ để minh họa trong giờ học nhưng hình ảnh chúng ta lấy từ internet lại quá nhỏ hay nó lại nằm chung với một hình khác .Như vậy chúng ta bó tay, không cần minh họa hay vẽ lên bảng hay tìm một bản đồ khác cho đến khi vừa ý? Không, giải pháp đơn giản hơn là chúng ta có thể phóng to bản đồ này lên hay xén lại hình để chỉ lấy phần bản đồ cần dạy. Hay để tăng thêm tính thuyết phục, tính chất thực của các sự kiện, giáo viên dạy lịch sử có thể thông qua các đoạn phim tư liệu. Vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại để đổi mới phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học ở trường phổ thông, qua thực tế đã chứng minh đều có tác dụng nâng cao chất lượng đào tạo rõ rệt. II. KIẾN NGHỊ Ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung và môn lịch sử ở trường phổ thông nói riêng là công phu thật. Có lẽ vì thế mà một số trường đã thực hiện nhưng chỉ mang tính hình thức và dừng lại ở các tiết học thao giảng. Phải chăng có nhiều rào cản trong việc áp dụng phương pháp mới này? Đó là do cơ sơ vật chất hay do sự ngại ngùng của một số giáo viên khi làm quen với các kỹ thuật tin học để phục vụ cho môi trường giảng dạy mới? Vì vậy tôi xin có một vài kiến nghị nhỏ như sau: Thứ nhất, với đội ngũ giáo viên Tin học hiện có trong nhà trường, chỉ cần tổ chức một số buổi seminar về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint cho toàn thể các giáo viên các bộ môn khác để họ có thể tự mình thiết kế cho mình một GAĐT riêng cho mình. Ngoài ra, các thầy cô giáo trong cùng tổ chuyên môn nên có các buổi thao giảng để thu nhận những góp ý chân thành từ những người khác, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp mới. Chúng tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm một ít bồi dưỡng về kiến thức tin học, các GV hoàn toàn có thể thiết kê được bài giảng thiết kế điện tử để thể hiện tốt hơn phương pháp sư phạm, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy. Thứ hai, Phòng GD-ĐT nên khuyến khích và hổ trợ kinh phí cho các trường để nối mạng Internet để khai thác tối đa CNTT áp dụng vào dạy học nhằm nâng cao chất lượng. Thứ ba, trong các đợt tập huấn chuyên môn nên lồng ghép tập huấn cho giáo viên làm quen với việc ứng dụng CNTT của từng bộ môn. Thứ tư, Phòng GD-ĐT cần có kế hoạch tổ chức thi thiết kế giáo án điện tử ở tất cả các bộ môn để khuyến khích và đẩy mạnh phong trào dạy học bằng CNTT và làm tư liệu bài giảng hay để giáo viên tham khảo và học tập. Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CƠ SỞ . . Ngày...........tháng năm 2017 Chủ tịch hội đồng Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO HUYỆN . . Ngày...........tháng ......... năm 2017 Chủ tịch hội đồng PHÒNG GIÁO DỤC & ĐT BA VÌ TRƯỜNG THCS PHÚ SƠN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc MÃ SKKN (Dùng cho HĐ chấm của Sở) BIÊN BẢN CHẤM VÀ XÉT DUYỆT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên SKKN: Sử dụng công nghệ thông tin để dạy kênh hình môn Lịch sử ở trường THCS Tác giả : Chu Quang Ưng Môn: Lịch sử Đơn vị : Trường THCS Phú Sơn Đánh giá của Hội đồng chấm (Ghi tóm tắt những đánh giá chính): Tính sáng tạo : .......... / 5 điểm Tính KH, SP : .......... / 5 điểm Tính hiệu quả : ......... / 5 điểm Tính Phổ biến, ứng dụng : ......... / 5 điểm Tổng số : ....... điểm Xếp loại :............... (Xếp loại A: Từ 17 đến 20 điểm Xếp loại B : Từ 14 đến <17 điểm Xếp loại C : Từ 10 đến <14 điểm Không xếp loại: < 10 điểm) Ngày 28 tháng 04 năm 2017 Người chấm 1 Người chấm 2 Chủ tịch Hội đồng xét duyệt (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên)
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_cong_nghe_thong_tin_de_day_ken.doc