Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hệ thống câu hỏi liên hệ phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh khi giảng dạy một số bài trong chương trình Lịch sử 11
1.Lí do chọn đề tài .
Như chúng ta đã biết những năm gần đây chất lượng dạy Sử và học Sử đang thu hút sự quan tâm, chú ý của toàn xã hội. Trong bối cảnh đó với nhiệm vụ là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử luôn trăn trở về việc dạy của mình, làm sao để nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử, làm sao để các em học sinh yêu thích môn học này trong bối cảnh mà những đòi hỏi của nghề nghiệp trong tương lai khiến rất nhiều học sinh không còn mặn mà, tâm huyết với khối C nói chung và đặc biệt là môn Lịch sử nói chung.
Cũng như các môn học khác, môn Lịch sử có nhiệm vụ và khả năng góp phần vào việc thể hiện mục tiêu đào tạo của trường phổ thông nói chung. Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học Lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Cho nên, cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo cho học sinh.
Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng Lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động não, không có bài tập thực hành… Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môn học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hệ thống câu hỏi liên hệ phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh khi giảng dạy một số bài trong chương trình Lịch sử 11

uá nhiều câu hỏi dàn trải, lan man không có mục đích rõ ràng và sử dụng câu hỏi trong thời điểm nào cho thực sự hợp lý, đảm bảo tính Logic của bài học nhằm phát huy hiệu quả tối đa. + Do những câu hỏi dạng liên hệ thực tiễn không có hướng dẫn trả lời trong sách giáo khoa vì vạy để đảm bảo mục tiêu giáo dục, người giáo viên phải nghiên cứu, tham khảo các nguồn học liệu để xây dựng hướng dẫn trả lời cho những câu hỏi này đảm bảo tính khoa học, thực tiễn, có tính giáo dục. + Đối với những bài giáo viên sử dụng giáo án điện tử thì giáo viên khai thác thế mạnh của nó để có thể cung cấp cho học sinh nghững hình ảnh, những số liệu để làm rõ thêm tính liên hệ thực tiễn trong bài học. Tuy nhiên cũng rất lưu ý về vấn đề thời gian tránh lạm dụng bởi kiến thức trong bài học là rất nhiều, sử dụng câu hỏi liên hệ chỉ là một nhỏ trong bài học mà thôi. + Vì đây là câu hỏi nhận biết và vận dụng nên giáo viên cũng không nên cầu toàn với những câu trả lời của học sinh, cần trân trọng những ý tưởng của các . Trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy tôi thường lựa chọn sử dụng dạng câu hỏi này ở thời điểm : + Đặt câu hỏi sau khi kết thúc các mục hoặc kết thúc bài học + Đặt câu hỏi phục vụ cho dạy bài mới và cho học sinh về nhà tìm hiểu. Các bước tiến hành: Giáo viên đưa ra câu hỏi. Học sinh nghiên cứu, thảo luận. Học sinh trả lời. Giáo viên bổ sung, góp ý. Từ thực tiễn nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn một số bài trong chương trình Sách giáo khoa Lịch sử 11 như sau : Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918) Khi dạy mục III. Kết cục của chiến tranh thế giới thứ nhất, giáo viên có thể hỏi học sinh câu hỏi: Câu hỏi: Chiến tranh thế giới thứ nhất có ảnh hưởng gì tới tình hình Việt Nam hay không? Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố: Việt Nam đang là thuộc địa của thực dân Pháp, lúc này đế quốc Pháp lại trực tiếp tham gia chiến tranh thế giới nhất và để tăng cường cho cuộc chiến tranh hoa người tốn của trên, Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 với quy mô lớn nhằm vơ vét sức người sức của phục vụ chiến tranh. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đã ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam, làm mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh đó chính sách của thực pháp cũng làm tình hình giai cấp tiếp tục có những biến chuyển, những lực lượng xã hội mới .. Bài 9: Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ cách mạng ( 1917-1921) Khi dạy mục III- Ý nghĩa của cách mạng tháng 10 Nga giáo viên đặt câu hỏi Câu hỏi: Ảnh hưởng của cách mạng tháng 10 Nga đối với cách mạng Việt Nam ? Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố: - Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê nin và người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đó là con đường cách mạng vô sản, là sự kết hợp phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp phong trào công nhân, phong trào yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản. - Học tập Lê nin, Nguyễn Ái Quốc thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là tổ chức tiền thân của Đảng. tiến tới sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam - Cách mạng tháng 10 Nga đã ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam thông qua con đường báo chí bí mật. các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp , Đường cách mệnh mở lớp đào tạo cán bộ, gây cơ sở cách mạng trong nước Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội ( 1921 -1925) Mục I - Chính sách Kinh tế mới và công cuộc khôi phục kinh tế 1. Chính sách kinh tế mới – giáo viên đặt câu hỏi Câu hỏi : Bài học từ chính sách Kinh tế mới của Lê nin với công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam ? Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố + Năm 1986, Đảng ta tiến hành đổi mới đất nước, Đảng ta đã vận dụng một cách linh hoạt bài học từ chính sách Kinh tế mới của Lê Nin, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế nhưng do nhà nước XHCN điều tiết. Đường lối đổi mới đã thu được những thành tựu quan trọng như ngày hôm nay. Bài 17: Chiến trang thế giới thứ 2 (1939-1945) Mục V – Kết cục của chiến tranh thế giới thứ 2 – Giáo viên đặt 2 câu hỏi Câu 1: Em hãy thể hiện thái độ của mình về việc Mĩ ném bom nguyên tử xuống 2 thành phố của Nhật Bản ? Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố: Mục đích của Mĩ khi nem bom nguyên tử là muốn trả thù Nhật bản trong trận Trân Châu Cảng, muốn cùng với lực lượng đồng minh đánh bại phát xít Nhật và cũng muốn cho thế giới thấy rằng ngày nay Mĩ là quốc gia duy nhất trên thế giới chế tạo thành công bom nguyên tử, là cơ sở để Mĩ thực hiện chiến lược toàn toàn cầu, tuy nhiên vị trí mà Mĩ ném bom hoàn toàn nằm ở khu vực phi quân sự, sát hại hàng chục ngàn người dân vô tội vì vậy đây là hành động đi ngược lại với đạo đức, đáng để nhân loại tiến bộ lên án và có thái độ phản đối trước hành động trên. Câu 2: Hiện nay chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ nền hòa bình ? Sau khi học sinh thảo luận, thuyết trình về suy nghĩ của mình giáo viên có thể gợi ý cho học sinh: Để bảo vệ hòa bình cho đất nước Việt Nam nói riêng và toàn thế giới ngày ngay, chúng ta cần ra sức học tập, nâng cao hiểu biết về giá trị của nền hòa bình, kiên quyết chống lại mọi âm mưu xâm phạm độc lập, chủ quyền, giữ vững nguyên tắc độc lập và giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước, cuộc khánh chiến của nhân dân ta từ 1873 đến 1884. Nhà nguyễn đầu hàng. Phần cuối bài nhằm tổng kết lại cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân ta, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Câu hỏi: Từ sự thất bại trong cuộc khán chiến cống Pháp cuối thế kỷ XIX hãy rút ra bài học đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay ? Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố: + Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần phải phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh tổng hợp + Cần linh hoạt trước những biến động của tình hình thế giới vận dụng đường lối đấu tranh hòa bình, mềm dẻo nhưng kiên quyết. Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914). Sau khi dạy xong mục 1, 2 giáo viên có thể đặt câu hỏi Câu 1: Từ hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh để lại cho thế hệ trẻ ngày nay bài học gì ? Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố: Mặc dù khuynh hướng dân tộc của 2 chí sỹ yêu nước thất bại song hai ông vẫn được lịch sử nhìn nhận, đánh giá là những nhà yêu nước xuất sắc và được nhân dân ta tưởng nhớ, biết ơn bởi dừ thất bại song ngày ngay chúng ta có thể học được ở 2 ông lòng yêu nước nồng nàn và ý chí vượt qua gian khổ hy sinh, tìm tòi cái mới, cổ vũ cho cái mới. Tuy nhiên từ sự thất bại đó cũng giúp chúng ta có một bài học là khi tiếp nhận cái mới cần phải nghiên cứu, tìm hiểu một cách sâu sắc phù hợp với điều kiện thực tiễn tránh việc đón nhận một cách hời hợp, không nhìn nhận đúng bản chất dẫn tới những thất bại là không thể tránh khỏi. Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914 -1918) Mục III – Sự xuất hiện khuynh hướng cứu nước mới 2. Buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc ( 1911-1918) Giáo viên đặt câu hỏi Câu hỏi: Qua việc tìm hiểu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, thế hệ trẻ ngày nay học được Bác ở điểm nào ? Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố: Qua việc tìm hiểu về những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước của Bác trước tiên chúng ta khâm phục lòng yêu nước nồng nàn của người, học được Bác ý chí quyết tâm vượt qua mọi gian khổ, hy sinh thể thực hiện lý tưởng và hoài bão, học được ở Bác tinh thần tự học, tự sáng tạo để chiếm lĩnh kiến thức, học được ở Bác tình yêu lao động Thực tế cho thấy, dung lượng kiến thức ở mỗi bài học Lịch sử là tương đối nhiều vầ để đảm bảo cho học sinh tiếp cận được kiến thức được đầy đủ các mức độ thông hiểu, nhận biết và vận dụng cũng như tìm hiểu đầy đủ đơn vị kiến thức thì giáo viên cần linh hoạt sắp xếp thời gian để sử dụng câu hỏi một cách hợp lí, tổ chức cho học sinh thảo luận cũng đảm bảo khoa học về mặt thời gian. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Từ thực tiễn nghiên cứu và áp dụng trong giảng dạy trong vài năm gần đây đã cho thấy sản phẩm nghiên cứu của tôi đã đảm bảo tính khả thi. Với việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn sinh động đã khơi dạy tính tò mờ thích khám phá những điều mới mẻ của học sinh, thu hút được học sinh trong những giờ học Lịch sử. Với đặc điểm học sinh nhà trường chất lượng đầu vào thấp, đa phần các em tiếp nhận kiến thức cơ bản còn khó khăn thì những câu hỏi mang tính nhận biết và vận dụng thì càng khó khăn hơn nữa và người nghiên cứu đề tài cũng chỉ có một tham vọng là những câu hỏi liên hệ thực tiễn trên chỉ áp dụng đối với học sinh có nhận thức khá trở lên. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy việc áp dụng hệ thống câu hỏi trên đã nhận được sự quan tâm và thu hút của đa số học sinh trong lớp, khi đặt các em vào tình huống có vấn đề các em đã chủ động suy nghĩ và lựa chọn cho mình những câu trả lời khá thú vị điều mà trước đây không thể có nếu như giáo viên cứ đi theo một lối mồn là sử dụng những câu hỏi đã có đáp án săn trong sách giáo khoa và học sinh nhìn sách giáo khoa để trả lời, không hề có sự vận động trí não, không hề có sự tư duy, sáng tạo. Sau mỗi bài học với việc cung cấp hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn đã hình thành cho học sinh kỹ năng phân tích, đánh giá, khái quát, liên hệ vào thực tiễn học tập và lao động của bản thân qua đó góp phần định hướng mục đích và lý tưởng sống cho học sinh trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc sử dụng câu hỏi liên hệ, tổ chức cho học sinh trao đổi thảo luận và cử đại diện của tổ, nhóm lên thuyết trình cũng góp phần rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng đối thoại, làm chủ tập thể của học sinh. Thông qua hoạt động này phần đông các em đã tự tin hơn, chững chạc hơn Trong những năm gần đây, tôi luôn được nhà trường nhà trường phân công dạy lớp 11, đó là một thuận lợi để tôi nghiên cứu, khảo nghiệm đề tài của mình vào thực tiễn. Kết quả khả quan trong đề tài nghiên cứu của tôi được minh chứng qua kết quả từ phiếu thăm dò học sinh và kết quả trong làm bài kiểm tra. - Về kết quả từ phiếu thăm dò sự hứng thú của học sinh + Năm học 2015 -2016: ( Trước khi nghiên cứu và ứng dụng ) Lớp Sĩ số Thái độ của học sinh Hứng thú với bài học Không hứng thú với bài học SL % SL % 11A 43 24 55,8 19 44,2 11B 42 20 47,6 22 52,4 + Năm học 2016 -2017: ( Sau khi nghiên cứu và ứng dụng) Lớp Sĩ số Thái độ của học sinh Hứng thú với bài học Không hứng thú với bài học SL % SL % 11A 44 36 81,8 8 18,2 11D 41 35 85,3 6 14,7 - Về kết quả điểm sau những bài kiểm tra ( Kiểm tra 1 tiết) + Năm học 2015 -2016: ( Trước khi nghiên cứu và ứng dụng ) Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 11A 43 0 0 13 30,2 29 67,4 2 2,4 0 0 11B 42 1 2,3 14 33,4 26 62 1 2,3 0 0 + Năm học 2016 -2017: ( Sau khi nghiên cứu và ứng dụng) Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 11A 44 2 4,5 24 54,5 18 41 0 0 0 0 11C 41 6 14,6 26 63,4 9 22 0 0 0 0 Kết quả bước đầu đạt được trong nghiên cứu và giảng dạy của bản thân là cơ sở để tôi mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp và nhận được sự đánh giá tích cực, từ năm học 2017-2018 đề tài của tôi đã được cả nhóm chuyên môn Lịch sử trong nhà trường ứng dụng rộng rãi trong dạy học và cũng thu được những kết quả khả quan. Đó là động lực để những năm tiếp theo tôi tiếp tục nghiên cứu, mở rộng phạm vi nghiên cứu của đề tài không chỉ ở phần Lịch sử thế giới lớp 11 mà còn trong toàn bộ chương trình lịch sử THPT. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Sử dụng câu hỏi liên hệ trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực, chủ động trong học cho học sinh trung học phổ thông hiện nay là rất cần thiết. Vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử. Tuy nhiên đặt câu hỏi như thế nào để phát huy trí thông minh, tính tích cực trong học tập của học rõ ràng không phải là vấn đề đơn giản và để việc sử dụng hệ thống câu hỏi nói trên có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải có một quá trình nghiên cứu khoa học, nghiêm túc và đặc biệt là phải tâm huyết với nghề, tâm huyết với học sinh. Nội dung trình bày trong đề tài chỉ là kinh nghiệm của bản thân và phạm vi nghiên cứu cũng bó hẹp trong một phần lịch sử nhất định, trong quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để đề tài được hoàn chỉnh, đưa vào ứng dụng rộng rãi trong quá trình giảng dạy lịch sử, nhằm góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử ở trường THPT. 2. Kiến nghị - Với nhà trường: Nhà trường tiếp tục tạo mọi điều kiện tốt nhất để những ý tưởng mới, sáng tạo và hiệu quả được đưa vào giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của bộ môn Lịch sử nói riêng và các môn học khác nói chung. Giáo viên bộ môn tiếp tục cùng với người nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu phát triển mở rộng đề tài trên phạm vi rộng hơn và có tính ứng dụng rộng rãi hơn. - Với Sở Giáo dục và Đào tạo: Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, trao đổi về chuyên môn, phương pháp giảng dạy, để giáo viên giảng dạy Lịch sử được trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Mai Đại Chính TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Sách giáo khoa Lịch sử lớp 11 hiện hành. 2- Lý luận dạy học của Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị - NXB Giáo dục 2004. 3- Tạp chí nghiên cứu lịch sử. 4- Con đường và biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông” của Ngô Minh Oanh NXB Giáo dục năm 2008.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_he_thong_cau_hoi_lien_he_phat.doc
Bìa.doc