Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kiến thức liên môn để dạy bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên (Thế kỷ XIII), Lịch sử 7
Một nhà nghiên cứu giáo dục đã từng nói: "Người thầy giáo tồi truyền đạt chân lý, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lý". Trong điều 4, chương I "Luật giáo dục" nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Phương pháp dạy học phải biết phát huy tính giáo dục tích cực, tự giác chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý thức vươn lên".
Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ thì yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục ngày càng cao và là một nhu cầu tất yếu, mang tính chiến lược nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ phát triển một cách toàn diện về: " Đức - Trí - Thể - Mĩ", để làm chủ bản thân, xây dựng đất nước văn minh, giàu đẹp.
Vấn đề chủ yếu trong học tập không phải cung cấp cho học sinh một số kiến thức, mà quan trọng là làm cho các em hiểu một cách sâu sắc kiến thức đó. Với đặc điểm và chức năng của mình, việc học tập Lịch Sử lại càng phải chú trọng đến phát triển năng lực, tính tích cực của học sinh. Học Lịch Sử không chỉ để “biết” mà còn để “hiểu” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
" Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích, nước nhà Việt Nam"
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kiến thức liên môn để dạy bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên (Thế kỷ XIII), Lịch sử 7

). + Âm nhạc: Ngoài ra, trong tiết này giáo viên còn có thể sử dụng kiến thức Âm Nhạc để càng làm cho học sinh thấy được sự hào hùng của trận chiến trên sông Bạch Đằng như thế nào. Và đó là bài hát: “Trên Sông Bạch Đằng” của tác giả Hoàng Quý. + Giáo dục công dân: Bằng kiến thức của môn giáo dục kết hợp với Sách giáo khoa, học sinh hoàn toàn có thể rút ra được ý nghĩa của chiến thắng Bạch Đằng 1288. TIẾT 4: IV/ Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên. + Văn học: Để làm sâu sắc thêm những hiểu biết của học sinh về nguyên nhân thắng lợi của 3 lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược, giáo viên có thể sử dụng kiến thức Văn Học như bài: “Cửa biển Bạch Đằng” của Nguyễn Trãi, hay bài “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ Lão... Đặc biệt hơn nữa, đó lại là những tác phẩm các em đã, đang và sẽ được học trong chương trình Văn học. Mặt khác, khi giáo viên nói tới tinh thần đoàn kết của nhân dân ta, đặc biệt là sự đoàn kết của vương hầu, quý tộc Trần - Giáo viên kể cho các em câu chuyện: anh em họ Trần đã chủ động giải quyết những bất hòa trong nội bộ vương triều để tạo nên khối đoàn kết dân tộc mà tiêu biểu là Trần Quốc Tuấn. + Mĩ Thuật: Để ghi nhớ công lao của các anh hùng dân tộc, hiện nay có rất nhiều khu di tích, các bức tượng như: Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông tại Khu di tích – danh thắng non thiêng Yên Tử (Phụ lục 8), lăng của nhà Trần (Phụ lục 9), Tượng: Trần Quốc Tuấn ở Nam Định, Lăng Trần Quốc Tuấn ở Quảng Yên - Quảng Ninh ... + Giáo dục công dân: Sau hàng loạt những thắng lợi của quân dân ta dưới thời Trần, học sinh sẽ rút ra được ý nghia của 3 lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên không chỉ đối dân tộc Việt mà còn góp phần ngăn chặn những cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Nguyên đối với Nhật Bản và các nước Phương Nam, làm thất bại mưu đồ thôn tính các miền đất còn lại ở Châu Á của Hốt Tất Liệt. + Giáo dục quốc phòng: Cũng qua 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên của nhân dân ta, giáo viên hướng các em thấy được trách nhiệm của bản thân đối với việc xây dựng và bảo vệ Biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. * Đối với hoạt động giáo dục: Sau khi thiết kế xong giáo án điện tử về bài 14: "Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên (Thế kỷ XIII)” (Lịch Sử 7) trên tinh thần sử dụng kiến thức liên môn để giảng dạy bài này, tôi đã tổ chức dạy thực nghiệm ở lớp 7C (Về mặt bằng chung của học sinh ở cả hai lớp 7C và 7B (lớp đã dạy trước khi làm đề tài này) đều ngang nhau nhưng kết quả thu được lại có sự khác nhau rất lớn như sau: Sĩ số Tích kê điểm 0-<2 2-<3,5 3,5-<5 5-<7 7-<9 9-10 TB SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 44 0 0 0 0 0 0 9 20 18 41 17 39 44 100 Vậy ta thấy: với việc dạy học theo hướng mới và được thiết kế qua giáo án điện tử thì kết quả thu được không có học sinh yếu kém, học sinh khá, giỏi chiếm 80%. Điều đó chứng tỏ, tính hiệu quả của việc sử dụng phương pháp này hơn hẳn so với việc giáo viên sử dụng phương pháp dạy học thông thường. Đặc biệt, khi tiếp thu kiến thức theo kiến thức liên môn đã giúp nhiều em sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết những vấn đề thực tiễn và đạt kết quả cao - giải 3 cấp Tỉnh, như em Hoàng Duy Kiệt và Phạm Khánh Ly Ly - Lớp 8A của nhà trường. * Với bản thân: khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào công tác giảng dạy, bản thân tôi thấy bài dạy trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn, học sinh tiếp thu bài hứng thú hơn. * Với đồng nghiệp: Với đề tài này cũng đã tích cực động viên các đồng nghiệp ngoài bộ môn chính của mình còn hứng thú tìm hiểu thêm kiến thức của môn học khác. Và đặc biệt, giáo viên nhiệt tình hưởng ứng cuộc thi sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết những vấn đề thực tiễn do ngành tổ chức. * Với nhà trường: Kết hợp với cuộc thi sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết những vấn đề thực tiễn do ngành tổ chức. Nhà trường đã tổ chức các cuộc họp để triển khai, phát động, động viên và hướng dẫn cho giáo viên áp dụng việc dạy học theo hướng tích hợp, liên môn trong mỗi bài dạy, tiết học. Cũng như tham gia cuộc thi: sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết những vấn đề thực tiễn do ngành tổ chức. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận. Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ của đề tài, qua kết quả nghiên cứu và thực nghiệm sư phạm tôi đã chứng minh và khẳng định được giả thuyết khoa học của Sáng kiến kinh nghiệm nêu ra và hoàn toàn có tính khả thi. Từ đó, tôi rút ra một số kết luận sau: Một là: Trong dạy học Lịch Sử, để cho học sinh không cảm thấy đây là môn học khô khan, khó hiểu, khó nhớ, phát huy tính tích cực học tập của học sinh, thì nhất thiết người giáo viên phải chú trọng đến việc dạy học theo hướng tích hợp, liên môn. Giáo viên cũng cần chú ý đến từng đối tượng học sinh để đưa ra phương pháp phù hợp. Điều quan trọng hơn nữa, dạy Lịch Sử giáo viên cần phải chú trọng dạy bằng giáo án điện tử. Hai là: Kiến thức Lịch sử việt Nam trong bài 14: "Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên (Thế kỷ XIII)” (Lịch Sử 7) với tầm quan trọng của nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích hợp, liên môn nhằm nâng cao chất lượng học tập của các em. Ba là: Vận dụng phương pháp nghiên cứu, kết hợp với thực nghiệm sư phạm, Sáng kiến kinh nghiệm khẳng định: nếu xác định chính xác nguồn liên môn phù hợp với từng nội dung trong bài, từng đối tượng học sinh và sử dụng công nghệ thông tin phù hợp thì chắc chắn giáo viên sẽ phát huy được tính tích cực học tập của học sinh. Kết quả là, học sinh đã lĩnh hội được tri thức, kỹ năng Lịch Sử một cách vững chắc hơn, đa dạng và phong hú hơn so với phương pháp dạy học truyền thống. Bốn là: việc xây dựng mô hình thiết kế bài học theo hướng liên môn và được thiết kế trên giáo án điện tử, giáo viên có thể định hướng mục đích của bài học tạo ra hình ảnh cụ thể, sinh động về các sự kiện lịch sử. Vì vậy, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tự làm việc, tự giải quyết vấn đềđể nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh không chỉ đối với bài 14: "Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên ( Thế kỷ XIII)” ( Lịch Sử 7) mà giáo viên và học sinh có thể áp dụng một cách tương tự đối với các bài học khác, môn học khác. 3.2. Kiến nghị. Để nâng cao chất lượng dạy - học của giáo viên và học sinh tôi mạnh dạn đưa ra những kiến nghị sau: - Đối với giáo viên: cần phải luôn chú trọng đến phương pháp dạy học theo hướng tích hợp, liên môn. Phải có các hình thức tuyên truyền khác nhau để cho học sinh hiểu thêm về Lịch sử dân tộc. - Đối với ngành giáo dục: Nên tổ chức các lớp chuyên đề bồi dưỡng để nâng cao khả năng ứng dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy cho cán bộ giáo viên. Nên tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi tìm hiểu về Lịch Sử. - Đối với nhà trường: Luôn động viên và đôn đốc việc dạy học theo hướng tích hợp, liên môn. - Đối với các cơ quan quản lí giáo dục: cần trang bị phòng học đa năng để thuận lợi cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh.Trang bị thêm các thiết bị dạy học hiện đại. Có những chính sách khuyến khích hơn nữa đối với học sinh đạt giải cao trong cuộc thi về Lịch sử. Chỉ có như vậy, mới kích thích được tinh thần, sự hứng thú trong học tập của học sinh. Và góp phần làm thay đổi cái nhìn, quan niệm và đề cao bộ môn Lịch Sử trong các gia đình nói riêng và xã hội nói chung. Để từ đó, mỗi người dân đất Việt có ý thức hơn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay như Bác Hồ đã từng nới: “ Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.” Tôi xin cam đoan: Đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Xác nhận của Hiệu Trưởng Thanh Hóa, Ngày 12/4/2016 Người thực hiện Lê Thị Nguyệt Nguyễn Thị Ngọc TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Bộ giáo dục và đào tạo, chuẩn kiến thức kĩ năng môn Lịch Sử THCS, NXB Giáo dục ViÖt Nam, H2009. 2/ Bộ giáo dục và đào tạo, sách giáo khoa Lịch Sử lớp 7, NXB Giáo dục, H2006. 3/ Bộ giáo dục và đào tạo, sách giáo viên Lịch Sử lớp 7, NXB Giáo dục, H2005. 4/ Bộ giáo dục và đào tạo, Thiết kế bài giảng THCS Sử lớp 7 , NXB Giáo dục. H.2005. 5/ Mạng goegle: Tranh ¶nh tư liệu về 3 lần kháng chiến chông Mông - Nguyên. 6/ Nguyễn Hữu Chí, đổi mới phương pháp dạy học Lịch Sử ở trường THCS, Viện khoa học Giáo dục. H.1 7/ Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục. H2006 8/ LuËt gi¸o dôc níc céng hoµ x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam. NXB H2010. 9/ TrÇn B¸ Hoµnh, Ph¸t huy tÝnh tÝch cùc cña häc sinh trong häc tËp. NXB Gi¸o dôc, H1995. PHỤ LỤC Phụ lục 01: Vài nét về Hốt Tất Liệt và kị binh Mông Cổ Hốt Tất Liệt là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, Khả hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của Trung Quốc. Tháng 10 năm Chí Nguyên thứ 3 (1266), Hốt Tất Liệt đã truy tôn Thành Cát Tư Hãn miếu hiệu là Thái Tổ, nên ông còn được gọi là Nguyên Thái Tổ. Thụy hiệu khi đó truy tôn là Thánh Vũ Hoàng đế. Tới năm Chí Đại thứ 2 (1309), Nguyên Vũ Tông Hải Sơn gia thụy thành Pháp Thiên Khải Vận. Hốt Tất Liệt là vị Đại Hãn (người đứng đầu của đế quốc) thứ 5 của đế chế Mông Cổ. Dưới thời của ông, sự hưng thịnh của đế chế này đã đạt đến đỉnh điểm. Ông cũng là người dựng lên nhà Nguyên ở Trung Hoa, và có tham vọng chinh phục nốt các quốc gia lân cận như Nhật Bản, Bagan, Java(nhưng thất bại). Hốt Tất Liệt là vị vua có trí tuệ, rất chú ý đến kinh tế và giao thông. Ông đồng thời cũng là người đầu tiên tạo ra tiền giấy (tiền pháp định). Phụ lục 02: Bến Đông Bộ Đầu Đông Bộ Đầu là một địa điểm được nhắc đến nhiều lần trong lịch sử Việt Nam thời Lý, Trần, Lê. Đây là một bến quan trọng trên sông Hồng, là nơi đã diễn ra nhiều trận quyết chiến của quân dân ta chống xâm lược Nguyên, Minh, nhất là cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất năm 1258. Cùng với các địa danh Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa lịch sử, cái tên Đông Bộ Đầu đã góp phần tô thắm cho trang sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Bến Đông Bộ Đầu ( Hà Nội ngày nay) Phụ lục 03: Vài nét về vua Trần Thái Tông Trần Thái Tông, tên thật là Trần Cảnh (17/07/1218 – 04/0 5/1277) là nhà vua đầu tiên của nhà Trần, ở ngôi hơn 32 năm (1225-1258), làm Thái Thượng Hoàng 19 năm. Ông được vợ là Lý Chiêu Hoàng, nữ hoàng đầu tiên và là nhà vua cuối cùng của nhà Lý nhường ngôi. Việc ông được đưa lên làm vua nói riêng và nhà Trần thay thế nhà Lý nói chung phần lớn nhờ ở công sức của Trần Thủ Độ, chú của Trần Cảnh. Khi đó Trần Thủ Độ là Điện tiền chỉ huy sứ trong triều Lý. Bố của Trần Cảnh là Trần Thừa, cũng là một viên quan của triều Lý như Trần Thủ Độ. Ông từng làm Nội thị khán thủ, một chức quan đứng đầu các quan hầu cận của vua nhà Lý). Trong thời gian ở ngôi, Trần Thái Tông đã 3 lần đổi niên hiệu: Kiến Trung (1225-1232), Thiên Ứng Chính Bình (1232-1250) và Nguyên Phong (1251-1258).Trước khi truyền ngôi cho con trai (sau là vua Trần Thánh Tông), Trần Thái Tông đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt chống lại thành công cuộc xâm lược lấn thứ nhất của quân Nguyên Mông. Phụ lục 04: Vài nét về Trần Quốc Toản TRẦN QUỐC TOẢN ( 1267-1285) Ông lớn lên trong không khí cả nước náo nức chuẩn bị chiến đấu chống quân Nguyên sang cướp phá và xâm lược nước ta lần thứ hai ( 1285 ). Năm 1282, triều Trần đã tổ chức một cuộc hội nghị quân sự rất đặc biệt tại bến Bình Than ( Hội nghị Bình Than ). Tham dự hội nghị này là các quý tộc và các tướng lĩnh cao cấp nhất của nhà Trần. Bấy giờ, tuy là quý tộc, đã từng phong tới tước Hầu - Hoài Văn Hầu - nhưng vì còn ở tuổi vị thành niên nên không được tham dự. Hoài Văn Hầu lấy đó làm điều hổ thẹn và căm tức lắm, tay đang cầm quả cam mà bóp nát lúc nào không hay. Khi về nhà , Trần Quốc Toản cùng với một ngàn người là tôi tớ và thân thuộc, sắm sửa binh khí và chiến thuyền, dựng cờ thêu sáu chữ “ Phá cường tặc, báo hoàng ân” ( nghĩa là : phá giặc mạnh, báo đáp ơn vua ). Khi đánh nhau với giặc Nguyên, Trấn Quốc Toản thường xông ra phía trước, khiến cho giặc hễ thấy là phải tránh lui, không ai dám đối địch. Tháng 4 - 1285, cùng với các vị danh tiếng khác như Chiêu Thành Vương, Nguyễn Khoái, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản được tham gia vào bộ chỉ huy chiến dịch Tây Kết. Trước khi đánh vào Tây Kết, quân sĩ của các tướng này đã tham gia chiến dịch Hàm Tử , góp phần rất lớn vào thắng lợi của chiến dịch Hàm Tử. Sau chiến thắng của chiến dịch Tây Kết, ông lại được cùng với Trần Quang Khải và nhiều tướng lĩnh khác như : Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền ... tham gia chiến dịch Thăng Long và Chương Dương. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản đã anh dũng hi sinh trong chiến dịch này. Top of Form Phụ lục 05: Đôi nét về Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn Trần Quốc Tuấn (1228 - 1300) là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng, ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc lòng báo đền "nợ nước" góp công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên. Ông còn là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay. Sau khi ông mất, vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương, lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp, Chí Linh (Hải Dương). Tượng đài: Trần Quốc Tuấn Tam quan đền Trần Hưng Đạo( Thành phố Nam Định ) (Đông Kênh - Hải Phòng) Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá chống trời. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :..."Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút".Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Phụ lục 06: Di tích bãi cọc Bạch Đằng tại Đồng Má Ngựa Di tích bãi cọc Bạch Đằng tại Đồng Má Ngựa (Quảng Yên - Quảng Ninh) Phụ lục 07: Xác định niên đại của các bãi cọc ở sông Bạch Đằng Bằng phương pháp phóng xạ Carbon C14 của nhà bác học Willard F.Libby (1908-1980) ( đạt giải thưởng Nobel Hóa Học năm 1960) dùng để định tuổi trong khảo cổ, địa chất, địa vật lý học... để các nhà khoa học xác định niên đại của các bãi cọc ở sông Bạch Đằng. C14 có chu kỳ bán phân hủy là 5.730 năm, có nghĩa là cứ sau 5.730 năm thì C14 chỉ còn một nửa. Chính vì vậy chỉ cần đếm số C14 còn lại là có thể tính ra được tuổi của cổ vật. Với phương pháp này, các nhà khoa học có thể xác định được các bãi cọc trên sông Bạch Đằng thuộc thời kì nào. Phụ lục 08: Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông tại Khu di tích – danh thắng non thiêng Yên Tử. Phụ lục 09: Đền thờ nhà Trần Đền thờ nhà Trần ở Thái Bình.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_kien_thuc_lien_mon_de_day_bai.doc