Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kiến thức liên môn nâng cao hiệu quả dạy học phần Lịch sử Việt Nam 10
Lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ xã hội của loài người, nó tồn tại độc lập, khách quan với ý muốn con người. Do đặc trưng môn Lịch sử khác với các môn học khác trong chương trình dạy học ở phổ thông đó là: học sinh không được trực tiếp chứng kiến sự kiện, vì lịch sử đó không lặp lại, không được biểu diễn trong phòng thí nghiệm. Hơn nữa, vấn đề nhận thức môn Lịch sử cũng khác so với các môn học khác: nó có nhận thức chung của quy luật loài người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và thực tiễn. Đồng thời nhận thức lịch sử cũng có sắc thái riêng: nhận thức các sự kiện lịch sử phải tuân theo logic sự kiện, sự thật khách quan chứ không phải tùy theo trí tưởng tượng của con người. Mỗi tác động của giáo viên đều ảnh hưởng đến học sinh. Vì vậy, giảng dạy môn lịch sử mỗi giáo viên phải dạy thế nào đó để tác động vào đúng quy luật nhận thức, giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ những kiến thức mà mình truyền tải, từ đó biết đánh giá, nhận định cũng như chủ động lĩnh hội kiến thức trên lớp.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kiến thức liên môn nâng cao hiệu quả dạy học phần Lịch sử Việt Nam 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kiến thức liên môn nâng cao hiệu quả dạy học phần Lịch sử Việt Nam 10
g và thu thập dữ liệu Bài kiểm tra trước tác động là bài kiểm giữa tra học kì I (môn Lịch sử) do giáo viên trong tổ thống nhất ra đề. Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra sau khi học xong bài 15 và bài 16 Lịch sử 10. Dạng câu hỏi kiểm tra là tự luận. Sau khi dạy xong các bài học trên, tôi tiến hành bài kiểm tra 1 tiết và chấm bài theo đáp án đã xây dựng. 2. Phân tích dữ liệu và bàn luận kết quả 2.1. Trình bày kết quả Bảng 4. So sánh điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động Lớp thực nghiệm (10A1) Lớp đối chứng (10A2) Điểm trung bình 7.40 5.86 Độ lệch chuẩn 1.49 1.90 Giá trị p của T-test 0.0001 Chênh lệch giá trị TB chuẩn (SMD) 0.81 2.2. Phân tích dữ liệu Trước khi thực hiện giải pháp 2 lớp 10A1 và 10A2 có kết quả học tập là tương đương nhau. Sau tác động kiểm chứng chênh lệch điểm trung bình bằng T-Test cho kết quả P = 0.0001<0.05, cho thấy: sự chênh lệch giữa điểm trung bình lớp thực nghiệm và lớp đối chứng rất có ý nghĩa, tức là chênh lệch kết quả điểm trung bình lớp thực nghiệm cao hơn điểm trung bình lớp đối chứng là không ngẫu nhiên mà do kết quả của tác động. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD = 0.81. Điều đó cho thấy mức độ ảnh hưởng của việc dạy học có sử dụng phương pháp dạy học tích hợp đến kết quả học tập của lớp thực nghiệm là lớn. Giả thiết của đề tài việc sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học làm nâng cao kết quả học tập của HS lớp 10 Trung tâm GDTX & DN Yên Lạc đã được kiểm chứng. Lớp thực nghiệm (10A1) Lớp đối chứng (10A2) Biểu đồ so sánh điểm trung bình trước và sau tác động của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng 2.3. Bàn luận Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của lớp thực nghiệm là điểm trung bình = 7.40, kết quả bài kiểm tra tương ứng của lớp đối chứng là điểm trung bình = 5.86. Độ chênh lệch điểm số giữa hai lớp là 1.54. Điều đó cho thấy điểm trung bình của hai lớp đối chứng và lớp thực nghiệm đã có sự khác biệt rõ rệt, lớp được tác động có điểm trung bình cao hơn lớp đối chứng. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra là SMD = 0.81. Điều này có nghĩa mức độ ảnh hưởng của tác động là lớn. Phép kiểm chứng T- test điểm trung bình sau tác động của 2 lớp là P = 0.0001< 0,05. Kết quả này khẳng định sự chênh lệch điểm trung bình của 2 lớp không phải là ngẫu nhiên mà là do tác động. * Hạn chế: Nghiên cứu này sử dụng kiến thức liên môntrong dạy học lịch sử ở bậc THPT là một giải pháp rất tốt để nâng cao kết quả học tập của HS, nhưng để sử dụng phương pháp này có hiệu quả người GV cần phải đầu tư nhiều thời gian và công sức; biết khai thác các nguồn thông tin, tài liệu; biết chọn lọc tư liệu để đưa vào tiết dạy sao cho có hiệu quả nhất. Một vấn đề cần lưu ý khác là khi sử dụng phương pháp này yêu cầu GV phải có giọng nói diễn cảm nếu không kiến thức đưa vào nhiều khi sẽ phản tác dụng vì giọng của GV khiến HS mất hứng thú. 3. Bài học kinh nghiệm Giáo viên lịch sử phải luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để cung cấp thêm thông tin và kiến thức ở mỗi bài học. kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, hình ảnh, tranh vẽ, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp.. để góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy. Giáo viên phải biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá kiến thức mới, dạy cho học sinh không chỉ có kiến thức mà cả phương pháp học trong đó, cốt lõi là tự học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiềm năng sang tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và phát huy, Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận sự kiện dưới những góc độ khác, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi lí giải một hiện tượng. Biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống. Phải giáo dục cho học sinh không vội vã bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu ra, không suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, không máy móc áp dụng những mô hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở để ứng xử trước những tình huống mới. Người giáo viên lịch sử cần bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ khoa học chính xác, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự chú của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học. Môn lịch sử cũng như nhiều môn học khác đòi hỏi sự chăm chỉ trong quá trình học tập. Sự đầu tư thời gian và công sức để học là một trong những nhân tố quan trọng làm nên thành công. Nếu các học sinh nghĩ rằng chỉ học thuộc lòng để nhớ các sự kiện là đã học tốt môn lịch sử thì đơn giản quá. Lịch sử là môn học đòi hỏi rất cao tư duy độc lập của người học trong cách đánh giá, phân tích nhân vật, sự kiện, v.v... Học sinh không nên hiểu chỉ học trong sách giáo khoa là đủ. Những kiến thức trong sách giáo khoa mới chỉ tóm lược vắn tắt tiến trình lịch sử quốc gia và thế giới. Nếu có thời gian giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thêm các sách lịch sử khác để hiểu biết thêm. Để học sinh yêu lịch sử thì cần có sự quan tâm đúng mức của xã hội. Một dân tộc yêu lịch sử, tôn trọng lịch sử thì sẽ có những học sinh yêu lịch sử, thích học lịch sử. Giáo viên dạy môn lịch sử trước hết phải có lòng yêu nghề và có kiến thức sâu về chuyên môn. Dạy vô cảm thì hậu quả học trò học vô cảm. Vì vậy các thầy cô cần phải dạy học trò không bằng trái tim mà cả khối óc nữa. Dạy bằng trái tim là để truyền sự rung cảm. Dạy bằng khối óc là để truyền đạt tri thức. Làm cho học sinh thấy được học lịch sử có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của quốc gia dân tộc. Học lịch sử trước hết là học về lòng yêu nước, học xưa để biết nay. Nếu các cá nhân trong một dân tộc không biết nguồn gốc và tổ tiên của mình thì dân tộc đó sẽ tiêu vong. Đánh mất lịch sử đồng nghĩa với đánh mất quốc gia dân tộc mình. Cần cho học sinh thấy học lịch sử không có giới hạn mà là học suốt đời như các môn học khác. Các em có thể học bất cứ lúc nào nếu muốn miễn là lòng đam mê với lịch sử là không có giới hạn.Làm cho học sinh thấy được học lịch sử có lợi cho nghề nghiệp của mình sau này. Lịch sử có trong tất cả các lĩnh vực, bởi ngành nghề nào mà chẳng có lịch sử hình thành và phát triển. Khi dạy học các thầy cô không nên quá cứng nhắc về phương pháp, mà phải có sự linh hoạt trong từng bài giảng. Không dạy theo kiểu “thầy đọc trò chép”, vì hậu quả của nó là đến khi đi thi học trò sẽ “chép hết gì thầy đã đọc”. Nên dạy cho học sinh cách phân tích, đánh giá, thậm chí là phê phán các sự kiện lịch sử. Để học sinh thực sự nhập cuộc vào bài học, chủ động trong lối suy và cách nghĩ, các thầy cô cần đưa ra các chủ đề lịch sử để các em tham gia thảo luận, nhất là thảo luận theo các nhóm. Trước đây theo cách thảo luận nhóm cũ học sinh quay mặt vào nhau cùng phát biểu những nội dung trong bài học chỉ vài phút rất máy móc và phản tự nhiên. Dạy học theo sơ đồ tư duy mỗi nhóm sẽ cùng nhau hình thành một tác phẩm sơ đồ tư duy theo ý tưởng riêng của từng học sinh hoặc từng nhóm rất đa dạng phong phú và hấp dẫn tất cả học sinh cả lớp cùng tham gia. Chúng ta cần đa dạng hóa cách dạy và cách học. Dạy học mà khuôn cứng là bóp chết lòng đam mê học tập của học trò. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận “Dân ta phải biết sử ta” không chỉ là mối quan tâm của Bác, đó cũng là nỗi trăn trở của những giáo viên dạy môn lịch sử, chúng tôi luôn mong muốn học sinh của mình hiểu được nội dung bài, hiểu được lịch sử của dân tộc từ đó các em sẽ cảm thấy yêu thương gắn bó với quê hương đất nước mình hơn. Phương pháp trên đã và sẽ được áp dụng tại TTGDTX Yên Lạc và cũng đạt được kết quả phát huy được tính tích cực của học sinh, rèn được kĩ năng tổng hợp, phân tích, so sánh, các em biết sử dụng sách giáo khoa, vận dụng kiến thức cũ để hiểu kiến thức mới. Giúp học sinh hiểu bài nhanh, thu hút sự cảm hứng đối với môn học này và học sinh có thể hiểu và nhớ bài ngay tại lớp, đồng thời giúp học sinh nhận thức được một cách sâu sắc về vị trí tầm quan trọng của lịch sử trong xã hội mà bấy lâu nay hầu như các em chưa mấy quan tâm. Sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả 100% học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học sinh của mình. Dạy học liên môn là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và trong dạy học Lịch Sử nói riêng. Tuy nhiên để thực hiện tốt và có hiệu quả đòi hỏi sự nỗ lực ở cả thấy và trò. Và việc thực hiện nó không phải bài nào, không phải phần nào cũng thực hiện được. Tuy nhiên theo ý kiến chủ quan của tôi, để khắc phục tình trạng dạy- học Sử như hiện nay, không chỉ đổi mới phương pháp mà phải thay đổi cả cách suy nghĩ của mọi người, của xã hội về vị trí của môn Sử trong việc đào tạo con người. Hơn nữa, để cải thiện chất lượng dạy và học môn Sử hiện nay không phải chỉ có giáo viên cố gắng mà học sinh cũng phải ý thức hơn trong việc học tập. Thử hỏi giáo viên dạy hay, tiết học sinh động, hấp dẫn nhưng học sinh không học bài, không chuẩn bị bài, không đọc sách giáo khoa, vậy thì kết quả sẽ như thế nào? Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy - học môn Sử cũng như chất lượng giáo dục cần có sự quan tâm của tất cả mọi người, của cả xã hội. Để tạo cho học sinh hứng thú hơn trong học tập, điểm cốt lỗi là thay đổi mới tương tác giữa thầy và trò, tạo cho học sinh chủ động nắm bắt tri thức khoa học lịch sử, hình thành thói quen trong việc tiếp cận thông tin, phân tích, tổng hợp, sưu tầm, đánh giá các sự kiện lịch sử Với phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, đây là nhiệm vụ mà tất cả chúng ta phải thực hiện, nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong việc học tập bộ môn lịch sử, để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn lịch sử ở trường THPT nói chung và Trung tâm GDTX nói riêng. 2. Kiến nghị Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh, sinh viên học tập một cách thụ năng tư duy. Học thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kỹ năng, học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Để tiến tới việc dạy học tích hợp các môn học trong nhà trường, cần: - Trước hết cần đào tạo bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia về tích hợp môn học để dần tiến tới thực hiện tích hợp môn học theo hướng chung của nhiều nước. - Thiết kế lại nội dung chương trình - sách giáo khoa các môn học theo hướng tích hợp. - Bồi dưỡng và nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng được yêu cầu học tập tích hợp. - Thiết kế lại chương trình đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm từ mục tiêu đến nội dung, PP để chuẩn bị năng lực cho đội ngũ giáo viên khi thực hiện chương trình tích hợp. - Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong Nhà trường, cách kiểm tra đánh giá theo hướng tích hợp. - Tăng cường cơ sở vất chất, thiết bị dạy học theo hướng tích hợp môn hoc. - Tiếp tục khai thác nghiên cứu thử nghiệm nội dung tích hợp theo các phương án khác nhau để có thể triển khai quan điểm tiếp cận tích hợp Việt Nam. Trên đây là những đề xuất của tôi trong việc tích hợp kiến thức liên môn vào giảng dạy bộ môn Lịch sử.Tôi hy vọng rằng : Những vấn đề tôi đưa ra trong sáng kiến này sẽ phần nào góp phần giúp cho các nhà trường, các thầy cô giáo có được nhứng định hướng trong việc tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, Không chỉ ở môn Ngữ văn, Âm nhạc, Địa Lý, GDCD mà còn ở các môn khoa học tự nhiên khác nữa. Đồng thời cũng giúp cho các em có hứng thú trong học tập bộ môn Lịch sử nói chung và lịch sử Việt Nam 10 nói riêng. 8. NHỮNG THÔNG TIN CẦN ĐƯỢC BẢO MẬT Không. 9. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN - Sáng kiến được áp dụng trong điều kiện nhà trường cần đảm bảo yếu tố về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học như phòng học bộ môn, máy chiếu, máy tính. - Giáo viên có kiến thức, kĩ năng giảng dạy về kiến thức liên môn. - Học sinh chuẩn bị bài ở nhà chu đáo theo hướng dẫn của giáo viên, tích cực xây dựng bài trên lớp. 10. ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC DO SÁNG KIẾN 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả - Sáng kiến đã góp phần làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn trong việc khắc sâu và mở rộng kiến thức SGK theo hướng sử dụng kiến thức liên môn trong việc giảng dạy phần lịch sử Việt Nam 10. - Sáng kiến đã cụ thể việc sử dụng kiến thức liên môn như môn Ngữ Văn, Địa Lí, Toán học, GDCD, Âm nhạc.... - Sáng kiến đã đề ra các con đường khắc sâu và mở rộng kiến thức SGK để HS có thể tự học và nghiên cứu Lịch sử. - Đã tổ chức thực nghiệm sư phạm để minh hoạ tính khả thi và hiệu quả của những biện pháp đã đề xuất. - Sáng kiến có thể làm tài liệu tham khảo cho HS, GV bậc GDTX, THPT. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, nâng cao hiệu quả dạy học trong phần Lịch sử Việt Nam 10, chương trình cơ bản ở Trung tâm giáo dục thường xuyên, thực hiện mục tiêu giáo dục. 11. DANH SÁCH NHỮNG TỔ CHỨC/ CÁ NHÂN ĐÃ ÁP DỤNG THỬ HOẶC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN LẦN ĐẦU TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Nguyễn Thị Huyền Trung tâm GDTX&DN Yên Lạc Sử dụng kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phần Lịch sử Việt Nam 10 ở Trung tâm GDTX & DN Yên Lạc Yên Lạc, ngày.....tháng......năm 2016. Thủ trưởng đơn vị/ (Ký tên, đóng dấu) Yên Lạc, ngày.....tháng......năm 2016 Tác giả sáng kiến (Ký, ghi rõ họ tên) Nguyễn Thị Huyền DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị: Phương pháp dạy học lịch sử, NXB Giáo Dục, Hà Nội 2004 2. Ngô Minh Oanh: Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT , NXB Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh 3. Nguyễn Xuân Trường (chủ biên) Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử 10,11, NXB Hà Nội 2007 4. Lịch sử 10 (Ban cơ bản), NXB Giáo dục, 2006 5. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 10 môn Lịch sử, NXB Giáo dục, 2006 6. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên về giáo án tích hợp liên môn 7. Nguồn: Bách khoa toàn thư:
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_kien_thuc_lien_mon_nang_cao_hi.doc

