Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp với văn học dân gian trong dạy học Lịch sử lớp 10 THPT
Nói về tầm quan trọng của việc nắm vững lịch sử, qua đó giáo dục niềm tự hào về lịch sử dân tộc, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Tuy nhiên, thực tiễn giáo dục ở nước ta hiện nay, chất lượng dạy học của môn Lịch sử chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là chậm đổi mới phương pháp dạy học. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.”
Dạy học lịch sử là quá trình giúp học sinh (HS) tìm hiểu những gì đã diễn ra ở quá khứ, và mục tiêu của bộ môn Lịch sử chính là việc giúp HS biết quá khứ, hiểu quá khứ đồng thời rút ra những bài học từ quá khứ để vận dụng vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp với văn học dân gian trong dạy học Lịch sử lớp 10 THPT
bảo vệ lãnh thổ của nhân dân ta (cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn). Khi giảng về nguồn gốc và quốc hiệu nước ta, GV có thể đọc câu thơ sau của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Lịch sử nước ta”: “Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang” Tiếp đó, GV có thể trích dẫn câu ca dao sau để HS khắc sâu kiến thức về cội nguồn dân tộc: “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3” Hoặc: “Ai về Phú Thọ cùng ta Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười. Ai về đến ngả ba Chanh Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương Cổ Loa thành ốc lạ thường Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây” Từ đó HS thêm tự hào về truyền thống dân tộc và có ý thức giữ gìn và xây dựng đất nước. Về sự thất bại của nước Văn Lang – Âu Lạc trước sự tấn công của phương Bắc, từ đó nước ta bước vào thời kì Bắc thuộc, chúng ta có thể kể câu chuyện “Mị Châu, Trọng Thủy” để HS dễ học dễ nhớ hơn. Hoặc cũng có thể trích dẫn đoạn thơ sau trong tác phẩm “Việt Nam sử ca”: “Loa thành nhà Thục thật, hư: “Nỏ thần trăm phát”? Gian mưu Triệu Đà: Se duyên, Thục - Triệu thông gia Đà mang giảo kế lừa nhà Thục Vương. Xót nàng duyên gãy mà thương Tội nàng tình thiệt vạ vương rụng rời. Triệu Đà được nỏ, nuốt lời An Dương Vương phải bỏ đời giữa khơi!” Để tổng kết mục 1, GV có thể trích dẫn đoạn thơ sau trong “Việt Nam sử ca”: “"Giấy rách còn giữ lấy lề" Người Việt đâu cũng nhớ về chốn quê. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ Mười lăm bộ họp dưới cờ Văn Lang. Họ Hồng Bàng, giữ giang san Mười tám đời rạng ngai vàng Hùng Vương!” Qua đoạn trích trên sẽ khắc sâu cho HS kiến thức khái quát về giai đoạn lịch sử thời kì dựng nước của dân tộc. Từ đó, bồi dưỡng cho HS ý thức về cội nguồn dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước và tình đoàn kết gắn bó dân tộc. Mục 2. Quốc gia cổ Chăm pa GV có thể kể chuyện về quá trình mở rộng lãnh thổ của nước ta xuống phía Nam. Ví dụ: Năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chế Củ và 5 vạn dân. Năm sau (1070), vua Chế Củ xin đem ba châu: Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị) để chuộc. Tiếp đó, GV có thể kể cho HS câu chuyện về Công chúa Huyền Trân, con gái vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên Huế)... Sau đó GV kết luận: Cuối thế kỉ XV, Chăm pa suy thoái và trở thành một bộ phận của lãnh thổ, cư dân và văn hóa Việt Nam. Bài 15: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)” Mục 1. Chế độ cai trị GV sử dụng đoạn thơ trong “Việt Nam sử ca” để HS hiểu được chế độ cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nước ta: “Tượng Quận gọi bởi nhà Tần Hán diệt Triệu, xẻ ba phần nước Nam: Cửu Chân, Giao Chỉ, Nhật Nam Giao Chỉ, Đông Hán đổi làm Giao Châu. Nhà Đường nước chiếm, nhà thâu: “An Nam đô hộ phủ”, sầu quốc vong!” Khi dạy đến chính sách đồng hóa về văn hóa, với nội dung mở trường dạy chữ Hán, truyền bá Nho giáo vào Việt Nam, GV có thể kể chuyện về Khổng Tử, trích dẫn một số câu nói của Khổng Tử trên quan điểm Nho học. Mục 2. Những chuyển biến về kinh tế - xã hội GV có thể kể tóm tắt nội dung câu chuyện “Sự tích bánh chưng bánh dày” để khẳng định các phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc vẫn được bảo tồn, nhân dân ta không bị đồng hóa về văn hóa. Bài 16: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)”- Tiếp theo Mục 1. Khái quát phong trào đấu tranh từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ X GV có thể trích đọc một số câu ca dao sau để HS tạo biểu tượng lịch sử, hình dung rõ hơn được bối cảnh lịch sử lúc đó như: Về khởi nghĩa của Bà Triệu: “Có bà Triệu tướng Vâng lệnh trời ta Trị voi một ngà Dựng cờ mở nước” Và tương truyền, quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu: “Cầm ngang ngọn giáo chống hổ dễ Giáp mặt vua bà thực khó ghê” Với khởi nghĩa Mai Thúc Loan, GV có thể đọc bài thơ sau (được ghi trong “Tiên chân báo huấn tân kinh” ở đền thờ Ông), để HS nhớ và hiểu hơn nguyên nhân bùng nổ khởi nghĩa, ca tụng công đức của Mai Thúc Loan: “Hùng cứ châu Hoan đất một vùng, Vạn An thành lũy khói hương xông, Bốn phương Mai Đế lừng uy đức, Đường đi cống vải từ đây dứt, Dân nước đời đời hưởng phúc chung” Mục 2. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu Về khởi nghĩa Hai Bà Trưng, GV sử dụng đoạn thơ trong “Đại Nam quốc sử diễn ca” để giúp HS nắm được nguyên nhân bùng nổ, kẻ thù, diễn biến và kết quả của cuộc khởi nghĩa. Từ đó, thấy được khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam trong buổi đầu đấu tranh giành độc lập: “Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân Ngàn tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã xuống dần Long Biên Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành Kinh kì đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta” Hoặc có thể sử dụng đoạn thơ sau trong “Việt Nam sử ca”: “Tô Định bạo ngược khôn lường Giết người Giao Chỉ không tường thị phi. Bắt Thi Sách đem giết đi Hai Trưng Trắc, Nhị tức thì khởi binh. Con dòng Lạc tướng Mê Linh Đuổi quân Tô Định mà bình đất Nam. Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam” Chẳng bao lâu hạ sáu lăm thành trì. Xưng vua, lừng lẫy ai bì Mê Linh đóng phủ, uy nghi một miền. Hay có thể sử dụng đoạn thơ trong “Thiên Nam ngữ lục” để nói về nguyên nhân cuộc khởi nghĩa: “Một xin rửa sạch nước thù Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng Ba kêu oan ức lòng chồng Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này” Khi giảng về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nước Vạn Xuân, GV có thể trích đoạn thơ trong “Lịch sử nước ta” để đánh giá sự kiện lịch sử: “Anh hùng thay ông Lý Bôn Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người Đánh tàu đuổi sạch ra ngoài Lập nên triều Lý sáu mười năm liền” Hay có thể sử dụng đoạn thơ trong “Việt Nam sử ca” để nói về nét chính cuộc khởi nghĩa: “Tham tàn thái thú, người ghê Hùng tâm, Lý Bí giương cờ diệt gian. Vạn Xuân thoát cảnh lầm than "Thái bình thiên đức", xua tan bóng tà. Bình minh chiếu sáng sơn hà Thanh bình tự chủ như là đến phiên! Nghe qua, Lương Đế đảo điên Xua quân lấn chiếm, Bá Tiên phụng quyền. Thua đi, thắng lại truân chuyên Lý Bôn quyết định trao quyền Triệu Vương.” Khi giảng về Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938, GV kể về tài năng của Ngô Quyền trong việc lợi dụng thủy triều lên xuống, ông đã tính toán và cho đóng cọc xuống cửa sông Bạch Đằng, lên kế hoạch cho quân mai phục và nhử địch vào trận địa, đúng như kế hoạch đánh thắng giặc sau một ngày. HS sẽ thấy được tài trí của người Việt từ đó bồi dưỡng niềm tự hào dân tộc, phát huy được tính sáng tạo trong cuộc sống: “Sông Bạch Đằng có tên nôm là sông Rừng, vì hai bên bờ sông nhất là phía tả ngạn toàn là rừng rậm. Hạ lưu sông thấp, độ dốc không cao nên ảnh hưởng của thuỷ triều lên xuống rất mạnh, chênh nhau đến 3m. Khi triều lên, lòng sông rộng mênh mông đến hàng nghìn mét, sâu tới chục mét. Biết rõ quân địch sẽ kéo vào nước ta theo đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã huy động cho quân, dân lên rừng chặt gỗ, đẽo nhọn đầu và bịt sắt, đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng ở những nơi hiểm yếu. Lúc nước triều lên bãi cọc chìm trong một biển nước mênh mông. Phía trên bãi cọc ngầm, Ngô Quyền còn bố trí một lực lượng thuỷ binh ẩn nấp hai bên bờ sông. Nhiều thuyền được giấu kín trong các bụi lau sậy. Hàng ngàn quân bộ, cung nỏ sẵn sàng mai phục bên cạnh các vách núi. Ngô Quyền đích thân cầm quân ra trận. Năm 938, Lưu Hoằng Tháo cầm đầu thuỷ quân Nam Hán tiến vào cửa sông Bạch Đằng đánh chiếm nước ta. Đợi cho nước triều lên ngập hết trận địa bãi cọc, Ngô Quyền cho một số thuyền n hỏ đánh nhử địch. Quân ta vờ thua rút chạy, Hoằng Tháo hăm hở thúc quân đuổi theo, vượt qua trận địa bãi cọc ngầm của ta. Ngô Quyền chỉ huy quân ta cầm cự với giặc. Khi nước thuỷ triều bắt đầu rút, ông mới ra lệnh phản kích. Những mũi tên từ các vách đá vun vút lao ra như mưa, hàng trăm thuyền bất ngờ xuất hiện. Quân giặc hoảng hốt quay đầu tháo chạy. Ra đến gần cửa sông, đúng lúc nước triều rút mạnh. Bãi cọc ngầm nhô lên. Quân ta dồn sức tấn công. Quân từ phía thượng lưu đánh xuống, quân mai phục từ hai bên bờ sông và quân thuỷ từ các sông nhánh xông ra đánh tạt ngang. Đội hình thuyền của địch rối loạn, xô vào nhau, va phải bãi cọc ngầm bị thủng vỡ, đắm rất nhiều. Quân địch bỏ cả chèo lái, nhảy xuống sông, phần bị giết, phần chết đuối, thiệt hại quá nửa. Hoằng Tháo bỏ mạng nơi đây. Thất bại nặng nề của đạo thuỷ quân Hoằng Tháo đã làm cho vua Nam Hán kinh hoàng, chỉ biết thương khóc con trai và hạ lệnh rút quân tiếp ứng, hoàn toàn bỏ mộng xâm lược nước ta. Cuối cùng, GV chốt lại: Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 thể hiện nghệ thuật độc đáo, sáng tạo của Ngô Quyền - đã biết lợi dụng thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã chấm dứt hơn 1000 năm nước ta bị các triều đại phong kiến phương bắc thống trị, mở ra một thời đại mới - thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta. Trên đây là một số ví dụ cụ thể về sử dụng các câu chuyện và tài liệu văn thơ trong giờ dạy lịch sử ở một số bài học mà bản thân tôi đã tổng kết và thực hiện khi dạy lịch sử khối lớp 10 ở trường THPT nhằm tạo hứng thú cho HS, nâng cao hiệu quả bài học. Từ những câu chuyện, đoạn thơ, bài ca nội dung kiến thức, hình ảnh nhân vật sẽ được toát lên một cách sinh động, sẽ đi theo năm tháng cùng với các em về các sự kiện, các cuộc khởi nghĩa, mà HS không cần phải học thuộc lòng cứng nhắc ở trong sách giáo khoa.Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng đòi hỏi GV phải có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết học... 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Qua nhiều năm dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông, tôi đã thực hiện nhiều phương pháp dạy học, phần lịch sử Việt Nam ở lớp 10- tôi thường sử dụng tài liệu văn học dân gian để bổ trợ cho việc xây dựng biểu tượng, hình ảnh, sự kiện, nhân vật lịch sử. Phương pháp này đã đạt hiệu quả đáng khích lệ, nhất là tạo hứng thú học tập cho học sinh, làm cho lớp học thêm sinh động- từ đó nâng cao kết quả học tâp. Cùng với sự nâng cao nhận thức, hứng thú học tập, học sinh cũng đã biết vận dụng kiến thức văn học dân gian trong học tập môn lịch sử- biết sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, vè... để minh họa , xây dựng biểu tượng hình ảnh lịch sử sinh động... Qua phương pháp này giúp HS hứng thú hơn khi học lịch sử, có sự hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó, các em có thể dễ dàng lĩnh hội các thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang tính khái quát. Mặt khác, nó còn có tác dụng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và hình thành nhân cách cho HS. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Văn học dân gian là tấm gương lớn phản chiếu quá trình lịch sử dân tộc một cách toàn diện và sinh động .Văn học dân gian mang lại, chuyển tải cả quá trình lịch sử - thông qua các câu chuyện truyền thuyết cho đến chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ... là ở đó ta thấy được một bức tranh sinh hoạt xã hội sinh động cũng như công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc của tổ quốc. Mỗi câu ca dao là một sự kiện lịch sử, mỗi câu chuyện là một giai đoạn lịch sử... Trong dạy học lịch sử tùy theo bài, tùy theo sự kiện, vấn đề lịch sử mà ta lồng vào các tài liệu văn học dân gian để xây dựng một biểu tượng lịch sử, phương pháp đó sẽ đạt được mục đích giáo dục đạo đức, tư tưởng và kiến thức lịch sử một cách hiệu quả. Kiến thức lịch sử trong các tác phẩm văn học dân gian rất phong phú, đa dạng nó phản ánh lịch sử một cách toàn diện. Việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong giảng dạy lịch sử 10 Trường THPT đã góp phần nâng cao kết quả học tập của HS. Qua giảng dạy, tôi đã rút ra được một kinh nghiệm mà bản thân tôi cho là rất quý. Đó là: khi sử dụng các câu chuyện, kiến thức thơ văn vào việc giảng dạy lịch sử sẽ gây hứng thú cho HS trong việc tiếp thu bài. Những tiết học như vậy trở nên sinh động hẳn. Khi GV kể chuyện hay đọc thơ minh hoạ, cả lớp chăm chú lắng nghe và tỏ ra rất thích thú. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng sâu sắc và lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em sâu hơn, lâu hơn. Tuy nhiên, trong chương trình lịch sử 10 không phải trong bài giảng nào GV cũng sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn, nó chỉ được sử dụng khi đảm bảo tính cần thiết và hiệu quả cần đạt. 2. Kiến nghị * Đối với các cấp lãnh đạo: cần quan tâm xây dựng và tiến tới sử dụng những phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy học, cần chỉ đạo cho thư viện nhà trường tăng cường sưu tầm, tập hợp các loại sách, tài liệu tham khảo phục vụ nhu cầu dạy và học Lịch sử của GV và HS. Cần hỗ trợ và tạo điều kiện cho GV lịch sử tổ chức các cuộc thi, các trò chơi lịch sử, các chuyến tham quan di tích lịch sử, bảo tàng * Đối với GV: không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, chịu khó đầu tư thời gian, công sức để sưu tầm tài liệu, sắp xếp thành hệ thống theo từng tiết học, từng chương, từng phần phù hợp với nội dung và kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. GV cần đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với HS trong quá trình dạy học như sưu tầm tại liệu trước ở nhà theo định hướng của GV. Với kết quả của đề tài này, tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp quan tâm, chia sẻ và đặc biệt là GV giảng dạy bộ môn Lịch sử có thể ứng dụng đề tài này vào việc dạy học để tạo hứng thú cho HS nhằm nâng cao kết quả bộ môn. XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết sáng kiến LÊ THỊ HỒNG TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, Nxb Đại học Sư phạm. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử cấp trung học phổ thông, Hà Nội. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục. Phan Ngọc Liên (Tổng Chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ (Chủ biên), Nguyễn Anh Dũng, Trịnh Đình Tùng, Trần Thị Vinh (2006), Lịch sử 10, sách giáo viên, Nxb Giáo dục. Phan Ngọc Liên (Tổng Chủ biên), Lương Ninh, Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Hồng Liên, Nguyễn Cảnh Minh, Nghiêm Đình Vỳ (2013), Lịch sử 10, Nxb Giáo dục Việt Nam. Nguyễn Thành (Chủ biên), Phùng Đức Thắng, Đặng Văn Thái (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Khắc Thuần (2003), Việt sử giai thoại, tập 1, Nxb Giáo dục. Trịnh Tùng (1999), Phương pháp dạy học lịch sử, Nxb Giáo dục. Thái Duy Tuyên (2007), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, Nxb Giáo dục. Việt Nam sử ca – sách điện tử. Mạng internet: vi.wikipedia.org, www.sugia.vn, baigiang.violet.vn, hotrodayhoc.com, vinhphuc.edu.vn
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_phuong_phap_ke_chuyen_ket_hop.doc

