Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn Lịch sử lớp 10 ở trường Trung học phổ thông
Trong sự nghiệp cái cách giáo dục hiện nay, việc phát huy tính cực chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, dần hình thành và phát triển các năng lực tự học, năng lực ngôn ngữ lịch sử, năng lực so sánh, đánh giá, nhận xét… cho học sinh là một vấn đề vô cùng quan trọng, là mối quan tâm hàng đầu của mỗi Nhà trường, mỗi tổ bộ môn, mỗi thầy cô giáo đang giảng dạy môn lịch sử. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp dạy học tích cực không có nghĩa là xóa bỏ phương pháp dạy học truyền thống mà là kế thừa phát triển những mặt tích cực của dạy học truyền thống đồng thời học hỏi, vận dụng một số phương pháp mới hiện đại.
Cũng như các môn học khác, học tập lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học hình thành thế giới quan khoa học, dần hoàn thiện và phát triển nhân cách lối sống, đạo đức của học sinh, mặt khác học tập lịch sử sẽ góp phần rất to lớn trong việc giáo dục truyền thống đạo đức, lòng yêu quê hương đất nước thông qua các bài học về quá trình đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc của bao thế hệ người Việt Nam ta, học sinh nhận thức đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của lịch sử, các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, cũng như tiếp cận với những tri thức tiến bộ của nhân loại…
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn Lịch sử lớp 10 ở trường Trung học phổ thông
căn bản đời sống của mình. Ngoài ra, lửa còn giúp con người sưởi ấm, thắp sáng, đuổi thú giữ... với ý nghĩa to lớn đó, đây xứng đáng là cuộc cánh mạng đầu tiên của con người. Ví dụ 2: Với bài 32: Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu, Phần 1: Cách mạng công nghiệp Anh, việc phát minh ra máy hơi nước của Giêm Oát là trọng tâm của bài nên giáo viên cùng học sinh tìm hiểu về Giêm Oát và máy hơi nước của ông để trả lời được câu hỏi :Vì sao máy hơi nước ra đời đã khởi đầu cho quá trình công nghiệp hóa nước Anh? Giêm Oát người Xcot-len, sinh 1736, năm 20 tuổi làm nhân viên thực nghiệm của trường Đại học Glax-gâu. Giêm oát nhớ lại lúc nhỏ cùng bà ngồi bên lò sưởi ấm vào mùa đông giá lạnh đã thấy ấm nước đặt trên lò, khi nước sôi nắp ấm cứ bật lên và có tiếng nước “phì phì”. Vì vậy, ông nảy ý địnhchế một máy động lực chạy bằng hơi nước và đặt ở địa điểm nào cũng được. Trên cơ sở máy hơi nước của Niu-cô-man, Giêm Oát đã miệt mài nghiên cứu và chế tạo thành công một động cơ hơi nước kiểu mới có hiệu quả gấp năm lần máy hơi nước cũ. Sau đó ông tiếp tục cải tiến nâng cao năng xuất máy. Máy hơi nước của Giêm Oát được đưa vào sử dụng rộng rãi trong đời sống và sản xuất, góp phần to lớn vào công cuộc công nghiệp hóa nước Anh Để ghi nhớ công lao của ông, sau khi ông mất người ta tạc chân dung ông và khắc trên đó dòng chữ “Người nhân lên gấp đôi sức mạnh của con người” Như vậy, thông qua câu chuyện về máy hơi nước của Giêm Oát giúp học _______________________________________ Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 4 sinh biết nuôi dưỡng ước mơ, luôn tự tìm tòi nghiên cứu học hỏi và hiểu được đây là thành tựu vĩ đại con người, nhờ phát minh ra máy hơi nước năng suất lao động không ngừng tăng lên, làm giảm sức lao động cơ bắp của con người và khởi đầu cho quá trình công nghiệp hóa ở nước Anh. c. Đối với phương pháp sử dụng kể chuyện lịch sử để giới thiệu, dẫn dắt vào bài mới. Ví dụ 1: Khi dạy bài 11: Tây Âu thời hậu kì trung đại (tiết 2) mục 3: phong trào văn hóa phục hưng, trước khi học bài giáo viên kể câu chuyện sau: Năm 1963, để mượn được bức tranh này về triển lãm, Hoa Kỳ đã phải đóng cả một tàu thủy đủ điều kiện ánh sáng, môi trường khí hậu như ở Bảo tàng để đưa “Nàng” sang thăm Hợp chủng quốc Mĩ. Từ Lu-vrơ xuống tàu, chuyến xe đặc biệt chở “Nàng” giễu hành giữa hàng ngàn xe cảnh sát lễ phục chỉnh tề, súng ống sẵn sàng bảo vệ, long trọng như tiễn đưa một nguyên thủ cao cấp....Ông Man-rô, Bộ trưởng bộ Văn hóa Pháp – người tổ chức mượn bức tranh này, được ghi vào từ điển Mĩ thuật của Pháp vì đã có công truyền bá văn hóa... Năm 1974, Nhật lại mượn bức tranh này trong vòng 2 tháng. Tính ra đã có tới hơn 2 triệu người Nhật hăm hở đến Tô-ki-ô chầu chực để được lướt qua chiêm ngưỡng “Nàng” hơn 1 phút. Nhân dịp này, Nhật còn tổ chức thi hoa hậu chọn người Nhật giống “Nàng” nhất. Trên đường về Pháp, thể theo yêu cầu của Liên Xô “Nàng” lại dừng chân tại Mat-xcơ-va một tuần lễ và hơn 1 triệu người Xô viết lại hân hạnh lướt qua 1 phút chiêm ngưỡng “Nàng”... Kể tới đây giáo viên dừng lại hỏi: câu chuyện trên kể về bức tranh nào? Do ai sáng tác?. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên kết luận như sau: Đây là một trong những thành tựu vĩ đại của thời đại Văn hóa phục hưng, bức họa “La Giô-công” của Lê-ô-na đơ Vanh-xi. Từ khi ra đời cho tới nay nó được coi là kiệt tác nghệ thuật, biểu hiện ở nụ cười “bí hiểm” của Nàng Mô-na Li-sa, được ghi lại bằng đôi má lúm đồng tiền, và đôi mắt đưa ngang vừa nhìn, vừa cười, vừa suy nghĩ, đôi mắt mọng kéo dài của con người thông minh và đa tình. Được vẽ nên bởi Lê-ô-na đơ Vanh-xi, một họa sĩ , nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà sáng tạo và triết học tự nhiên. Ông được coi là nhà thiên tài toàn năng người Ý. _______________________________________ Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 1,4 Ví dụ 2: Khi dạy bài 4: Các quốc gia cổ đại phương Tây Hi Lạp và Rô-ma. Tiết 2, phần 3: Văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô-ma. Giáo viên đọc lại lời than thở của Macxenluyxơ – danh tướng La mã: “Thế là chúng ta đã phải ngừng giao chiến với nhà toán học đó rồi. Ông ta ngồi yên trên bờ biển, đánh đắm chiến thuyền của chúng ta, bắn chúng ta mỗi loạt không biết cơ man nào là tên đạn. Ông ta quả đã vượt xa những người khổng lồ trong các câu chuyện thần thoại...”. Đến đây giáo viên hỏi: Ai là nhân vật được nhắc trong đoạn trích trên. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên kể tiếp: Acsimet sinh năm 287 TCN trên đảo Xixilia. Theo lời kể của Plutac – nhà văn kiêm nhà sử học cổ Hi Lạp, Ácsimet rất say mê toán học. Các công trình toán học của ông bao trùm khắp mọi lĩnh vực đương thời: hình học, số học, đại số. Cho đến nay mặc dù đã trải qua bao nhiêu năm tháng, nhiều tác phẩm của ông đã bị thất truyền, nhưng vẫn còn giữ lại một di sản toán học khá phong phú. Khi đại quân La Mã do danh tướng Macxenluyxơ chỉ huy đến xâm lăng Xyraquydơ, Acsimet đã cho các máy phóng đá bí mật của mình xuất trận. Các loại tên đạn độc đáo ấy lao vun vút về phía quân thù làm hàng ngũ quân địch rối loạn. Trong khi đó trên mặt biển bất thần có vô vàn phiến gỗ từ mặt thành văng ra trúng vào thuyền địch với một sức mạnh như trời giáng.. “Quân La Mã hoảng sợ, đến nỗi chỉ cần nhìn thấy một sợi dây thừng, hay một chiếc gậy gỗ ở trên tường là đã la hét thất thanh, cho là Acsimet đang quay những cỗ máy về phía mình và chạy thục mạng” Plutac có viết: “Khi những chiếc thuyền của Macxenluyxơ lọt vào khoảng tầm tên bắn thì Acsimet ra lệnh đưa đến một chiếc gương 6 mặt do chính ông làm ra. Ông còn cho đặt một loạt gương giống như vậy, nhưng nhỏ hơn, ở những vị trí tính trước. Những gương đó tự quay được trên bản lề và được đặt dưới ánh nắng mùa hè cũng như mùa đông. Tia sáng phản chiếu từ những chiếc gương đó gây ra những đám cháy rất lớn thiêu đốt thuyền địch từ khi chúng còn ở cách một tầm tên bắn...” Như vậy, không chỉ được biết tới qua các câu chuyện Ơrêca – tìm ra rồi, nguyên lý đòn bẩy..., Acsimet còn được nhớ tới là một nhà khoa học yêu nước, bằng sức lao động và tài năng của bản thân, ông đã sát cánh cùng với nhân dân thành phố quê hương đứng lên bảo vệ đất nước mình. _______________________________________ Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 5 Ví dụ 3: Dạy bài 34: Các nước tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Học sinh tìm hiểu mục 1: các thành tựu khoa học – kỹ thuật cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX. Giáo viên đọc bài thơ: “ .... Tia Rơnghen Chuyện ma quái gì vậy Cả thành phố sục sôi bốc lửa Cả tôi nữa cũng thất kinh Khi nói đến tia vô hình Có thể xuyên qua cả quần áo và tâm hồn mình nữa...” Và một công ty nhân dịp này lại tung ra quảng cáo cho những món hàng độc đáo để kiếm lời. Công ty may mặc đã chào hàng 1 loại quần áo lót có thể chống được sự “xâm nhập” của những tia Rơnghen khủng khiếp, một của hàng mũ đã quảng cáo: loại mũ này che kín chán không cho ai có thể dùng tia Rơnghen đọc được ý nghĩ của bạn... Giáo viên hỏi: Tia Rơnghen là gì? Tại sao lại có những ý nghĩ khủng khiếp như thế? Khi ra đời nó được ứng dụng vào nghành nào? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên tổng kết như sau: Tia Rơnghen (tia X) được phát minh bởi nhà bác học Rơnghen (Đức) trong 1 lần tình cờ khi quên tất cầu giao điện trước khi ra về, quay trở lại theo thói quen, ông đi thẳng tới phòng thí nghiệm. Lúc đang giơ tay tắt cầu giao điện, đột nhiên ông thấy vệt sáng màu xanh lục trên bàn. Thật kỳ lạ tia này chỉ phát sáng khi có tia mặt trời chiếu vào, lúc này phòng thí nghiệm tối như bưng. Trong phòng nguồn năng lượng duy nhất đang phát là ống tia catốt. Ông ngắt cầu giao điện cao thế, ánh sáng xanh lục lại biến mất, lặp lại vài lần, kết quả vẫn như thế... trong suốt bảy tuần lễ, ông ngồi lì trong phòng thí nghiệm, mỗi ngày chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ và tạm ngừng công việc trong ít phút để ăn uống... khi tìm ra tính chất của tia bí mật ông đạt tên là tia X... Chỉ trong vòng một năm kể từ ngày Rơnghen phát minh ra tia X, trên thế giới đã có 40 cuốn sách và hàng nghìn bài viết riêng về “ tia Rơnghen” và khả năng ứng dụng tia này trong y học. _______________________________________ Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 4 Đâu đâu người ta cũng tổ chức những buổi báo cáo, những cuộc tranh luận xung quanh vấn đề này Lí thú nhất là những tấm ảnh do các phòng thí nghiệm vật lý khác nhau chụp bằng tia X. Nó được đăng trên các báo, tạp chí dưới những nhan đề đặc biệt: “Bộ xương của người còn sống” “Người trong suốt” “Bàn tay ma”... Phát minh của Rơnghen ngay từ đầu mở ra chân trời mới: khoa X quang. Dần dà, theo đà phát triển, đã có tới hàng chục lĩnh vực khoa học đã ứng dụng tia X : chụp ảnh bằng tia Rơnghen, dò khuyết tật bằng tia Rơnghen, chuẩn đoán bệnh bằng tia Rơnghen, sự huỳnh quang do tia Rơnghen, truyền hình bằng tia Rơnghen, kĩ thuật tia Rơnghen, thiên văn học tia Rơnghen.... Như vậy, thông qua câu chuyện về nhà bác học Rơnghen, học sinh thấy được tài năng sáng tạo và sự lao động miệt mài của các nhà bác học. Với phát minh của mình, ông đã cống hiến cho y học nhiều hơn bất cứ nhà vật lý nào khác. Năm 1901, ông là nhà khoa học đầu tiên được nhận giải Nôben về vật lý. Trên đây, tôi đã trình bày một số ví dụ nhằm minh họa cho việc sử dụng phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao hiệu quả bài học, truyền đạt kiến thức mới. Phương pháp này, còn có thể áp dụng vào nhiều bài khác nữa, và cũng có thể thực hiện đối với Lịch sử lớp 11, lớp 12Trong quá trình vận dụng đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết học Ngoài các phương pháp kể chuyện lịch sử đã nêu ở trên, nhà trường, tổ bộ môn, giáo viên có thể tổ chức buổi ngoại khóa môn lịch sử: cemina – thảo luận một vấn đề lịch sử đã có sự tìm hiểu, chuẩn bị từ trước, tham quan học tập ở bảo tàng lịch sử, hoặc trong khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ... Đây là một hình thức ngoại khóa hấp dẫn, dễ làm và có hiệu quả giáo dục cao. Tuy nhiên trong khuôn khổ của đề tài và do thời gian có hạn tôi chỉ xin nêu lên vấn đề ở đây và sẽ cố gắng thực hiện trong một đề tài khác... _______________________________________ Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 4 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Với việc sử dụng phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử trong việc giảng dạy, tôi thấy nó đem lại rất nhiều tiện ích cho học sinh. Học sinh nắm vững kiến thức cơ bản, không bị nhầm lẫn kiến thức, qua các câu chuyện, các giai thoại lịch sử sẽ mở rộng vốn kiến thức, sự hiểu biết về lịch sử từ đó học sinh nắm bắt được bản chất của sự kiện – hiện tượng – lịch sử. Khi nắm được kiến thức, học sinh sẽ phấn khởi, yêu thích môn học từ đó nâng cao chất lượng bộ môn. Điều này được biểu hiện rõ qua bảng biểu kết quả so sánh sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 10A4 45 3 6,66 15 33,33 20 45,5 5 11,11 2 4,4 10A6 (Lớp Thực nghiệm) 47 6 12,76 18 38,29 19 40,44 4 8,51 0 0 Như vậy, thông qua kết quả bảng biểu so sánh trên, ta thấy: học sinh lớp 10A6 do được học tập, tìm hiểu, nghiên cứu các bài học lịch sử bằng các phương pháp kể chuyện lịch sử nên chất lượng giờ học tốt hơn, tỉ lệ học sinh đạt khá, giỏi tăng cao (52,05%),tỉ lệ học sinh yếu giảm (8,51%), học sinh kém không còn. III. Kết luận và kiến nghị 3.1. Kết luận - Với phương pháp dạy học không sử dụng phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử: + Giờ học thiếu sinh động + Không khí lớp học trầm, chủ yếu chỉ có hoạt động của giáo viên + Học sinh tiếp thu kiến thức một cách máy móc, thụ động - Với phương pháp dạy học sử dụng kể chuyện: + Giờ học sôi nổi, học sinh hứng khởi, chủ động khi tiếp cận kiến thức + Học sinh xác định được kiến thức cơ bản, biết hệ thống, khái quát các sự kiện hiện tượng lịch sử qua từng tiết học. Học sinh dễ dàng thuộc bài ngay trên lớp. 3.2. Kiến nghị Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và trong dạy học lịch sử nói riêng là điều vô cùng quan trọng trong tình hình thực tế hiện nay. Để có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, độc lập của học sinh, phát triển được các năng lực của học sinh, đòi hỏi giáo viên thực sự tận tâm với nghề, luôn trăn trở đầu tư công sức để tạo ra những bài dạy hay, phù hợp cho từng đối tượng học sinh. Tuy vậy, cũng không thể xóa bỏ hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống đã sử dụng bấy lâu nay vì thế tôi thấy rằng phương pháp kể chuyện lịch sử này có thể áp dụng để thu hút, tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử, tránh được sự nhàm chán trong tiết học. Đây là phương pháp không mới, không đặc biệt nhưng nếu được áp dụng một cách phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ thì hiệu quả đem lại không phải là nhỏ. Ngoài ra giáo viên còn có thể kết hợp với các phương pháp dạy học khác để bài học đạt hiệu quả cao nhất. Qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn lịch sử lớp 10 ở trường Trung học phổ thông” tôi thấy rằng: Sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch sử là điều thực sự cần thiết, có ý nghĩa lớn giúp học sinh dễ nhớ kiến thức của bài học, lại tạo ra không khí học tập sôi nổi, lý thú, góp phần nhỏ vào giáo dục nhân cách, lối sống, đạo đức cho học sinh. Thông qua đây, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: - Các giáo viên giảng dạy phải thường xuyên trau dồi tri thức, tự học tập để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, tự tìm tòi đúc kết kinh nghiệm để áp dụng vào trong giảng dạy. - Kết hợp với đoàn trường, tổ bộ môn nên tổ chức các cuộc thi lịch sử mang tính chất vừa học, vừa chơi vừa thể hiện sự hiểu biết, vừa tạo điều kiện để học sinh bộc lộ năng khiếu khác của mình. Đồng thời tạo điều kiện giúp đỡ, khuyến khích các em tham gia các cuộc thi khác có liên quan do các sở ban nghành tổ chức. Qua một số kinh nghiệm trên tôi mạnh dạn viết ra để trao đổi với đồng nghiệp , mong giúp cho việc nâng cao chất lượng bộ môn. Do thời gian có hạn, nên đề tài nghiên cứu còn hạn chế, mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hoá, ngày 25 tháng 5 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác Lê Thị Ngọc Anh TÀI LIỆU KHAM KHẢO 1. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử lớp 10 - tác giả Trịnh Tiến Thuận, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Nam Phóng, Lê Hiến Chương, Phan Ngọc Huyền – NXB Hà Nội. 2. Sách giáo viên Lịch sử lớp 10 - tác giả Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Lương Ninh, Trương Hữu Quýnh (chủ biên),Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Hồng Liên, Nguyễn Cảnh Minh, Nghiêm Đình Vì - NXB Giáo dục 3. Chuẩn kiến thức kỹ năng môn Lịch sử lớp 10 - tác giả Trịnh Đình Tùng (chủ biên), Nguyễn Thị Thế Bình, Bùi Đức Dũng – NXB Đại Học Sư Phạm 4. Truyện kể về các nhà bác học vật lý - tác giả Đào Văn Phúc (chủ biên), Thế Trường, Vũ Thanh Khiết - NXB Giáo dục 5. Những mẩu chuyện lịch sử thế giới – tác giả Đặng Đức An (chủ biên) – NXB Giáo dục. 6. Sổ tay kiến thức lịch sử (phần lịch sử Việt Nam) – tác giả Trương Hữu Quýnh (chủ biên) – NXB Giáo dục
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_phuong_phap_ke_chuyen_lich_su.doc

