Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT

Hai câu thơ của Bác Hồ cho thấy tầm quan trọng của giáo dục lịch sử dân tộc. Học lịch sử để biết, để hiểu, để thấm nhuần đạo lý “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Song thực tế hiện nay là học sinh rất học lịch sử, nhất là lịch sử dân tộc. Phải chăng vì môn Lịch sử quá khó, khô khan, không hấp dẫn với học sinh.

Bởi vậy, việc làm sống dậy những sự kiện lịch sử, phục dựng lại bức tranh quá khứ một cách sinh động là yêu cầu quan trọng trong dạy học lịch sử để học sinh có biểu tượng lịch sử chân thực, chính xác, từ đó tích cực tư duy để chiếm lĩnh tri thức.

Vấn đề là làm thế nào để bài giảng lịch sử trở nên sinh động và hấp dẫn?

Có nhiều biện pháp mà giáo viên có thể thực hiện như: Sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng tài liệu tham khảo, trong đó có sử dụng tài liệu văn học dân gian.

doc 22 trang SKKN Lịch Sử 19/08/2025 70
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch sử ở trường THPT
 học sinh đọc để trình bày về khởi nghĩa Hai Bà Trưng, chắc chắn có nhiều em đọc được và khi đó các em rất hứng thú.
 Ví dụ khác, khi dạy bài 26, để miêu tả sinh động bức tranh ảm đạm của xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn đầu thế kỷ XIX, giáo viên có thể đọc một đoạn trong bài “Vè cái thời Tự Đức”:“ Từ ngày Tự Đức lên ngôi
Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như di”.
 Giáo viên cũng có thể sử dụng tài liệu văn học dân gian bài 14, trước khi miêu tả nhằm thu hút sự chú ý của học sinh. Chẳng hạn trước khi miêu tả thành Cổ Loa, giáo viên có thể đọc đoạn ca dao sau:
“Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng dấu thành còn đây”.
2.3.3. Sử dụng tài liệu văn học dân gian để minh họa, tạo biểu tượng lịch sử, khái quát thời kỳ lịch sử, nêu khái niệm, rút quy luật, bài học lịch sử.
 Bài 16: Để cụ thể hóa về nguyên nhân, mục tiêu của khởi nghĩa Hai Bà Trưng, giáo viên có thể sử dụng 4 câu trong bài diễn ca “Thiên Nam ngữ lục”:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.”
 Để học sinh thấy được lòng tôn kính, sự ủng hộ của nhân dân ta với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô (248), giáo viên có thể sử dụng câu ca dao:
“Ru con con ngủ cho ngoan
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng”.
 Nói về khởi nghĩa của Mau Thúc Loan, ở Nghệ An còn truyền lại một bài hát chầu văn kể tội bọn đô hộ nhà Đường, vạch rõ nỗi thống khổ của nhân dân, quan lại, quân lính nhà Đường về làng đánh đập dân, vơ vét tơ lụa, tiền thóc, bắt dân cống vải, bắt phu:
“Nhớ khi nội thuốc Đường triều
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai
Sân quả vải vì ai vạch lá
Ngựa hồng trần kể đã héo hon”.
 Nói về ba lần chiến thắng trên song Bạch Đằng: Chiến thắng của Ngô Quyền chống quân Nam Hán (938), của Lê Hoàn chống quân Tống (981), của Trần Hưng Đạo chống quân Mông – Nguyên (1288), giáo viên có thể dẫn câu ca dao:
“Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan”.
 Bài 21 nói về cuộc chiến tranh Nam – Bắc triều và chiến tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài hàng thể kỉ làm hao người tốn của, nhân dân chán ghét, li tán, giáo viên có thể sử dụng những câu:
“Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”.
“Cái cò lặn lội bờ sông
	Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non	
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi chảy nước non Cao Bằng”.
Câu này nói về sự kiện quân nhà Mạc bị quân Lê – Trịnh đánh tan tác (1592) phải bỏ chạy lên ẩn náu ở Cao Bằng, tiếp tục chống cự đến đầu thế kỉ XVII mới bị tiêu diệt hoàn toàn.
 Bài 23: Để tạo biểu tượng cho học sinh về chiến thắng rạch Gầm – Xoài Mút (1785) diễn ra lúc trời còn chưa sang, ánh lửa đom đóm còn lập lòe trên những cây bần ở ven sông, giáo viên dùng câu ca dao:
“Bần gie lửa đóm sáng ngời
Rạch Gầm soi dấu muôn đời uy linh”.
Minh họa cho sự kiện nghĩa quân Tây Sơn trên đường tiến quân ra Bắc dừng lại ở Thanh Hóa, Nghệ An tuyển thêm quân lính, nhân dân nô nức đi theo:
“Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già”.
Bài 22: Sự phát triển của kinh tế hàng hóa, sự hưng khởi của các đô thị thế kỉ XVI – XVIII, giáo viên có thể sử dụng những câu:
“Đình bảng bán ấm, bán khay
Phù Lưu họp chợ mỗi ngày một đông”.
“Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Hay
“Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
Bài 26: Nói đến khởi nghĩa nông dân của chàng Lía ở Bình Định, giáo viên có thể sử dụng đoạn vè: “Ai về Bình Định mà nghe
Nói thơ chàng Lía, hát vè Quảng Nam”.
“Chiều chiều én liệng Chuông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành”.
Về khởi nghĩa của Phan Bá Vành dân gian có câu “Trên trời có ông sao tua - ở làng Minh Giám có vua Ba Vành”.
Giáo viên cũng có thể sử dụng tài liệu văn học dân gian để khái quát về sự kiện lịch sử đang học. Ví như khi học xong mục 1 bài 18,giáo viên có thể khái quát bức tranh kinh tế nông nghiệp thời Lê:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”.
Để giúp học sinh thấy được quy luật “có áp bức có đấu tranh” dưới xã hội phong kiến, giáo viên có thể dùng những câu “Được làm vua, thua làm giặc” hay
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa”.
Để học sinh rút ra bài học đoàn kết giáo viên không thể không sử dụng câu chuyện bó đũa, câu chuyện Thánh Gióng, câu ca dao như:”Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”
2.3.4. Sử dụng tài liệu văn học dân gian kết hợp với đồ dung trực quan và các tài liệu tham khảo khác.
 Văn học dân gian phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta dưới sách nhìn của quần chúng nhân dân. Dù phong phú song văn học dân gian cũng chỉ phản ánh được một phần của hiện thực lịch sử. Để cho bức tranh lịch sử được toàn diện và sống động, giáo viên nên kết hợp tài liệu văn học dân gian với đồ dung trực quan như kênh hình trong SGK, như tranh ảnh, lược đồ và các nguồn tài liệu tham khảo khác nhất là tư liệu lịch sử. Tư liệu lịch sử là căn cứ khoa học, có độ tin cậy và chính xác cao sẽ góp phần khẳng định tính xác thực của những nội dung lịch sử được phản ánh trong tài liệu văn học dân gian.
 Ví dụ khi miêu tả thành bài Cô Loa giáo viên kết hợp câu ca dao, và cả tư liệu lịch sử; “Thành được đắp bằng đất có 9 vòng, chu vi vòng ngoài 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6 km. Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu khoét hào đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoai thoải để đánh vào thì khó, đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 – 5m, có chỗ cao 8 – 12m, chân lũy rộng 20 – 30m, mặt lũy rộng 6 – 12m. Quanh thành là hệ thống mạng lưới thủy văn dày đặc tạo thành một vùng khép kín. “Sự kết hợp như vậy cho học sinh biểu tượng cụ thể về công trình phòng ngự kiên cố, vững chắc của quân dân Âu Lạc. Học sinh hiểu được ý thức quốc phòng của nhân dân ta và sự lớn mạnh của Âu Lạc.
 Ví dụ khác khi dạy bài 22 , trình bày sự hưng khởi của các đô thị ở Đàng Ngoài, giáo viên đọc câu “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố Hiến”. Kinh Kỳ tức Thăng Long (Kẻ Chợ) thì quen thuộc với học sinh vì đã được nhắc đến khi học bài 18 nhưng còn phố Hiến thì rất lạ với học sinh vì bản than phố Hiến hiện nay không còn nữa. Do vậy, giáo viên phải kết hợp với tư liệu lịch sử giới thiệu vài nét về phố Hiến để học sinh biết được đây là đô thị lớn thứ hai ở Đàng Ngoài. Phố Hiến nằm ở tỉnh Hưng Yên ngày nay, có điều kiện tự nhiên thuận lợi (nằm cạnh sông), là trung tâm tiếp nhận hàng hóa bốn phương về để xuất khẩu. Nơi đây có rất nhiều thương điếm của người nước ngoài, cả người phương Tây, người Trung Quốc, người Nhật Bản. Những tài liệu phương Tây mô tả phố Hiến với cảnh tượng tập nập trên bến dưới thuyền với trên 2000 nóc nhà, riêng người Hà Lan đã có khoảng 100 nóc nhà.”
 Bài 26: Bức tranh xã hội nước ta thời Nguyễn, giáo viên sử dụng những câu ca dao, hò vè nói về tệ tham quan ô lại, nạn cường hào sách nhiễu nhân dân vừa kết hợp sử dụng tư liệu lịch sử “Nhà Nguyễn còn tập trung sức dân, của cải xây dựng kinh thành, cung điện ở Phú Xuân, phá dỡ cung điện của vua Lê ở Hà Nội chuyển vào, điều động hàng nghìn dân đinh, binh lính Thanh Hóa, Nghệ An, Bắc thành vào làm trong hàng chục năm. Theo sử cũ, trong một lần tuần du ra Bắc vua triệu Trị đã bắt nhân dân xây dựng 44 hành cung ở dọc đường để vua nghỉ.”Tự Đức xây lăng Vạn niên hao tổn nhiều nhân lực, vật lực đến mức nhân dân khắp nơi oán than:
“Vạn niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.
 Tất cả để cuối cùng học sinh hiểu được vì sao nhân dân và binh lính lại nổi dậy chống lại triều đình Nguyễn với hàng trăm cuộc khởi nghĩa từ Nam chí Bắc.
2.3.5. Sử dụng tài liệu văn học dân gian để hướng dẫn học sinh tự học ở nhà.
 Theo sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh có thể sử dụng tài liệu văn học mới. Muốn khai thác hiệu quả giá trị của những tác phẩm văn học dân gian trong điều kiện thời gian trên lớp hạn hẹp, giáo viên có thể gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm hiểu trước ở nhà hoặc sưu tầm them sau mỗi bài học nhằm mục đích tìm kiếm hoặc củng cố kiến thức lịch sử, bồi dưỡng vốn văn học dân gian cho học sinh.
Ví như, trước khi dạy bài 14, giáo viên hướng dẫn học sinh ở nhà tìm đọc các truyền truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thủy Tinh, An Dương Vương, Mỵ Châu – Trọng Thủy, Bánh Chưng, bánh dày, trầu cau và trả lời các câu hỏi như Thời vua Hùng và Thục Phán An Dương Vương, cư dân Việt cổ làm những nghề gì, ăn gì, đi lại ra sao, có phong tục tập quán gì ?.
 Học sinh làm theo hướng dẫn của giáo viên nghĩa là đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho bài học, do đó khi lên lớp học sinh sẽ rất tích cực tham gia phát biểu xây dựng bài, lĩnh hội kiến thức một cách vững chắc.
Ví dụ khác, khi dạy xong bài 16, giáo viên có thể yêu cầu học sinh về nhà sưu tầm các câu ca dao, truyện truyền thuyết nói về khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Lý Bí, chiến thắng Bạch Đằng để khắc sâu cho học sinh về những chiến công vẻ vang của dân tộc trong lịch sử, giáo dục lòng biết ơn với tổ tiên và những người có công với nước.
 Tương tự dạy xong bài 19, giáo viên cũng yêu cầu học sinh sưu tầm, tìm đọc những tài liệu văn học dân gian nói về Dương Vân Nga, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, về sự tích Hồ Gươm, bà hàng nước thành Cổ Lộng
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
 Để kiểm tra hiệu quả, tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm
* Phương pháp: Tôi sọan hai giáo án dạy bài 20 ở hai lớp: Lớp thực nghiệm (10 A6) và lớp đối chứng (10 A7). Giáo án thực nghiệm tôi soạn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong đó đi sâu khai thác tài liệu văn học dân gian.( Giáo án thực nghiệm bài 20, tôi trình bày phần 1. Quốc gia Văn Lang-Âu Lạc ở phần phụ lục)
* Địa điểm: Hai lớp 10A6 và 10A7 , hai lớp có sĩ số và mức độ nhận thức tương đương nhau.
 Cả giáo án thực nghiệm và đối chứng đều do tôi trực tiếp soạn trên cơ sở góp ý của các thầy (cô) trong nhóm sử và sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường. Tôi dạy ở lớp đối chứng trước, lớp thực nghiệm sau.
 Để có cơ sở đánh giá, kiểm nghiệm hiệu quả các biện pháp mà tôi đưa ra trong sáng kiến kinh nghiệm, ngay sau tiết học, tôi đều tiến hành kiểm tra hoạt động nhận thức của học sinh bằng câu hỏi trắc nghiệm. ( Trình bày ở phần phụ lục)
 Tôi và các thầy cô trong nhóm sử đã tổ chức chấm bài, đánh giá ở cả hai lớp thực nghiệm và đối chứng sau đó tổng hợp kết quả, đưa ra nhận xét, đánh giá về các giải pháp tôi đã đề xuất trong sang kiến kinh nghiệm.
* Kết quả: Sau khi chấm bài kiểm tra, tôi thống kê kết quả, lập bảng xếp loại theo thang điểm quy định:
Điểm 9 – 10: giỏi	Điểm 5 – 6: Trung bình
Điểm 7 – 8: Khá	Điểm dưới 5: Yếu, kém
Lớp
Số học sinh
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10A6
(thực nghiệm)
43
3
7
27
64
12
17
1
2
10A7
(đối chứng)
41
1
2
18
44
19
46
3
7

 Kết quả thực nghiệm cho thấy, điểm số ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng. Ở lớp thực nghiệm có 1 em dưới điểm trung bình trong khi ở lớp đối chứng còn 3 em. Ở lớp thực nghiệm tỉ lệ học sinh đạt điểm khá chiếm đa số (64%) trong khi đó ở lớp đối chứng tỷ lệ này chỉ đạt 46%. Số lượng học sinh đạt điểm giỏi ở lớp thực nghiệm là 3 em, ở lớp đối chứng chỉ có 1 em.
 Kết quả trên khẳng định hiệu quả và tính khả thi của sang kiến kinh nghiệm đồng thời trong quá trình tiến hành thực nghiệm, tôi cũng đã rút ra kinh nghiệm cho bản thân để có thể bổ sung cho sáng kiến kinh nghiệm, mong được các thầy, cô góp ý.
Phần 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
 Văn học dân gian là một nguồn tài liệu quan trọng trong dạy học lịch sử, nhất là nội dung lịch sử Việt Nam ở trường THPT. Văn học dân gian gồm nhiều thể loại khác nhau như thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, ca dao, tục ngữ, câu đố, vè loại nào cũng phản ánh lịch sử ở mức độ nhất định. Văn học dân gian có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng bức tranh lịch sử sinh động, gây hứng thú cho học sinh giúp học sinh có biểu tượng lịch sử chuẩn xác là cơ sở để nắm khái niệm, rút ra quy luật và bải học lịch sử.
 Tuy nhiên việc học sử ở trường THPT hiện nay còn nặng nề, khô khan, thiên về cung cấp sự kiện, việc sử dụng văn học dân gian trong dạy học lịch sử nhất là lịch sử Việt Nam ở trường THPT còn chưa thường xuyên và chưa đạt hiệu quả cao.
 Qua thực tiễn giảng dạy, qua dự giờ học hỏi đồng nghiệp, qua tìm tòi nghiên cứu, tôi đã đưa ra sang kiến kinh nghiệm của bản than trong đó đề xuất một vài biện pháp sử dụng tài liệu văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT. Các biện pháp đó là: sử dụng tài liệu văn học dân gian kết hợp với nêu câu hỏi gợi mở, với tường thuật, miêu tả; sử dụng tài liệu văn học dân gian để minh họa, tạo biểu tượng, khái quát, nêu khái niệm, rút ra quy luạt và bải học lịch sử, sử dụng tài liệu văn học dân gian kết hợp với các đồ dung trực quan và tài liệu tham khảo khác; sử dụng tài liệu văn học dân gian để hướng dẫn học sinh tự học ở nhà và tổ chức ngoại khóa cho học sinh.
3.2. Kiến nghị.
 Sở GD tổ chức cuộc thi làm sang kiến kinh nghiệm với tất cả các giáo viên ở các môn học và tạo điều kiện để các sáng kiến kinh nghiệm đó được thử nghiệm và ứng dụng; nhà trường chỉ đạo cho thư viện phối hợp với giáo viên sưu tầm, tập hợp các loại sách, tài liệu tham khảo phục vụ cho nhu cầu dạy và học của giáo viên và học sinh trong đó có môn lịch sử. Tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên, đổi mới phương pháp dạy học, hỗ trợ và ủng hộ các tổ chuyên môn làm tốt hoạt động ngoại khóa của tổ chuyên môn và tổ chức ngoại khóa cho học sinh.
 Tổ chức thường xuyên các đợt tập huấn cho giáo viên, trong nội dung tập huấn cần hướng dẫn cụ thể các cách thức lựa chọn nội dung và phương pháp sử dụng các loại tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử, trong đó có tài liệu văn học dân gian. Sở phối hợp với công ty sách và thư viện các trường phổ thông cung cấp thường xuyên các đầu sách phục vụ nhu cầu giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2019.
SKKN này do tôi làm, không coppy dưới bất kì hình thức nào nếu sai tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm.
 Hà Thị Hạnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Côi: Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông, NXBĐHSPHN, 2005.
2. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng (CB): Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở THCS, NXBGD, 1998.
3. Phan Ngọc Liên (CB): Phương pháp dạy học lịch sử tập 1, NXB ĐHSP, 2002
4. Phan Ngọc Liên (CB): Phương pháp dạy học lịch sử tập 2, NXB ĐHSP, 2002
5. Phan Ngọc Liên (Tổng CB): Lịch sử 10 (chuẩn – cơ bản), NXB GD, 2008
6. Phan Ngọc Liên (Tổng CB): Lịch sử 11 (chuẩn – cơ bản), NXB GD, 2008
7. Phan Ngọc Liên (Tổng CB): Lịch sử 12 (chuẩn – cơ bản), NXB GD, 2008
8. Phan Ngọc Liên (CB): Kiến thức Lịch sử 10 , NXB ĐHQG TPHCM, 2006
9. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: Giáo dục học tập 1, NXB GD 1998
10. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: Giáo dục học tập 2, NXB GD 1998
11. Phạm Thu Yến (CB): Giáo trình văn học dân gian, NXB ĐHSP, 2008

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_tai_lieu_van_hoc_dan_gian_tron.doc
  • docbia_skkn_2019.doc
  • docphu_luc_skkn_2019.doc