Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử ở trường THPT

Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng phải đa dạng hoá các nguồn thông tin bằng nhiều phương tiện, phương pháp dạy học, trong đó tài liệu tham khảo là nguồn kiến thức không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy.

Có thể nói, lịch sử liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá… Chúng ta có thể tìm thấy lịch sử trong hầu hết các môn khoa học. Nhưng gần gũi nhất với lịch sử chính là ngành khoa học Xã hội - Nhân văn, trong đó nổi bật là bộ môn Văn học.

Thực tiễn việc dạy và học lịch sử ở nhiều trường phổ thông hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận học sinh đang dần “xa lánh” môn lịch sử, không còn hứng thú với việc học tập môn lịch sử. Đây là thực trạng đáng buồn.

Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân (gia đình – xã hội – nhà trường). Trong đó một nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng trên đó là: Giáo viên dạy sử còn để giờ dạy sử quá khô khan, nặng nề nên thiếu sự thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục hiện tượng này, theo tôi ngoài việc đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan.... thì chúng ta nên sử dụng nhiều hơn nữa nguồn tài liệu văn học trong giờ học lịch sử để làm bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn hơn.

doc 19 trang SKKN Lịch Sử 16/10/2025 70
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử ở trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
úc (chết) Hàm Nghi chạy ra Sơn phòng đều là con của Kiến Thái Vương (một nhà)). Tất nhiên giáo viên cần lưu ý giải thích từ “thua” thuộc quan điểm giai cấp nào?
	Hoặc khi dạy bài 12 (LS lớp 12) chương trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những chuyển biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Để mô phỏng cảnh nhân dân ta phải nộp sưu thuế. Giáo viên có thể sử dụng 4 câu ca dao sau:
“Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy.”
 - Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian còn giúp học sinh biết được, hiểu được về chí khí con người, về địa danh của 1 nhân vật lịch sử nào đó. Ví như khi nói về Lí Công Uẩn giáo viên có thể dùng 4 câu thơ sau:
“Màn có trời cao, chiếu đất liền
Đêm trăng Thanh thả giấc Thần tiên
Suốt đêm nào dám vung chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.”
	Hoặc khi giảng về cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành, để giúp học sinh dễ dàng nhớ về địa danh nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa, quê hương ông. Giáo viên có thể dùng 2 câu ca dao sau:
“Trên trời có ông sao Rua
Giữa làng Minh Giám có vua Ba Vành.”
 - Bên cạnh những tác dụng trên, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian sẽ giúp cho việc giáo dục tư tưởng, đạo đức nói chung và giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng có kết quả hơn. 
 b) Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử.
 - Đối với các tác phẩm văn học này, nó có ý nghĩa rất lớn đối với khi khôi phục lại hình ảnh quá khứ. Nó làm quá khứ của sự kiện lịch sử trở nên sống động hơn, chân thật hơn. Sự kiện trở nên có sức sống hơn và thu hút học sinh hơn khi theo dõi bài giảng.
	Ví dụ như: khi dạy bài 19 (LS lớp 11) Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1858-1873). Tuỳ vào diễn biến bài giảng giáo viên có thể lồng ghép bài thơ sau sao cho phù hợp tiến trình bài học. Cụ thể là:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút ra tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trăng dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này!”
(Theo thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – NXB Văn học, Hà Nội 1963)
	Hoặc để nói lên khí thế chống giặc của người dân Nam Bộ nói chung, 3 tỉnh miền Tây Nam Kì nói riêng, giáo viên có thể trích 1 đoạn trong văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu như:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn: Toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ....
.... Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn găn; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cỏ”.
.... Hoả mai đánh bằng rơm con cúc, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ....
 - Trong quá trình lịch sử từ đầu thế kỉ XX, khi nói về sự biến đổi của xã hội Việt Nam, cũng như thân phận của người nông dân trong xã hội thuộc Pháp. Giáo viên có thể sử dụng nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan; “Lão Hạc” của Nam Cao.... để khắc sâu hình ảnh thân phận người nông dân trong lòng xã hội cũ.
	Hoặc khi dạy bài 14( LS lớp 12): Phong trào cách mạng 1930 – 1935. Giảng về phong trào ở Nghệ Tĩnh giáo viên có thê đưa vào bài giảng đoạn trích sau trong “Bài ca cách mạng” cụ thể là:
“.... Than ôi, nước mất nhà xiêu
Thế không chịu nổi, liệu chiều tính mau.
Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh 1 phen dậy rồi....
..... Trên gió cả cờ đào phất thẳng
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra
Chiến trường một trận xông pha
Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng....”
(Thơ văn cách mạng 1930 – 1945 NXB Văn học.H.1930)
	Hoặc như khi dạy bài 20 (LS lớp 12) cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 - 1954) tại phần II mục 2 chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Giáo viên có thể sử dụng các tác phẩm văn học viết về Điện Biên Phủ trong thời kì này vào bài giảng. Ví dụ: Bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” (Tố Hữu). Giáo viên có thể trích dẫn 2 câu thơ sau để khắc sâu về hình ảnh chiến đấu dũng cảm của chiến sĩ Điện Biên đó là: 
“Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn.”
	Như vậy, có thể nói rằng, các tác phẩm văn học xuất hiện cùng thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử đã giúp học sinh thấy được “bức tranh” sống động của lịch sử, làm cho các em nhận thức được sự kiện đó 1 cách toàn diện hơn.
 c) Tiểu thuyết lịch sử:
 - Tiểu thuyết lịch sử có vai trò không nhỏ đối với việc dạy học lịch sử. Vì các tiểu thuyết này có chủ đề gần với những sự kiện trong khoá trình lịch sử, giúp học sinh khôi phục lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện nhân vật của quá khứ. Ví như: Tiểu thuyết “Đêm hội long trì”; tác phẩm “Hoàng Lê Nhất Thống Chí”..... Tuy nhiên, khi dạy giáo viên cần lựa chọn, sáng lọc loại bỏ những tiểu thuyết bịa đặt, ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh.
 2.3.3. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử:
	Theo Giáo sư Trịnh Đình Tùng trong cuốn Phương pháp dạy học lịch sử (trang 164. NXB Giáo Dục 1999). Để sử dụng tài liệu văn học trong giờ dạy lịch sử, có thể tiến hành theo cách sau:
 - Thứ nhất: Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh hoạ những sự kiện đang học làm cho nội dung bài học được phong phú và giờ học thêm sinh động.
 - Thứ hai: Dùng một đoạn trích để cụ thể hoá sự kiện, nêu ra 1 kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kì, một sự kiện lịch sử.
 - Thứ ba: Tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi ngoại khoá (Dạ hội lịch sử).
	Tuỳ vào nội dung bài học, tiết dạy và năng lực của mỗi giáo viên mà chúng ta có thể sử dụng 1 trong những cách trên sao cho phù hợp.
 2.3.4. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử:
 Việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử giúp học sinh nắm kiến thức lịch sử sâu sắc, toàn diện hơn, đặc biệt các em có sự liên hệ, tích hợp kiến thức giữa các môn học, tránh được tình trạng rời rạc, tản mạn trong kiến thức của học sinh, tính hệ thống của các tri thức đó sẽ giúp học sinh hiểu sự kiện, có khả năng phân tích sự kiện, tìm ra bản chất, qui luật phát triển của lịch sử. 
 Tuy nhiên không phải cứ đưa TLVH vào bài giảng lịch sử là giáo viên đã đạt hiệu quả dạy học như trên mà việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử phải tuân thủ theo những nguyên tắc dạy học nói chung và yêu cầu cụ thể sau đây. 
 - TLVH phải phù hợp với nội dung bài giảng và trình độ nhận thức của học sinh. 
 - TLVH phải đảm bảo tính tiêu biểu, điển hình. 
 - Lựa chọn các biện pháp thích hợp để sử dụng TLVH. 
 - TLVH sử dụng trong sự kết hợp giữa các phương pháp, các loại tài liệu khác nhau. 
 - TLVH đảm bảo tính khoa học và tính tư tưởng.
 Đối với giáo viên:
 - Trước khi sử dụng, cần có sự lựa chọn kĩ càng, phải loại bỏ những yếu tố không phù hợp. Đặc biệt đối với tài liệu VHDG như thần thoại, cổ tích, ca dao, dân ca.... giáo viên cần loại bỏ những yếu tố thần bí hoang đường giữ lại những điểm cơ bản, khoa học phục vụ bài giảng.
 - Khi sử dụng giáo viên chỉ đưa vào những nội dung phù hợp, tránh việc lạm dụng đưa vào quá nhiều, làm loãng nội dung bài học lịch sử. Biến giờ học sử thành giờ giới thiệu các tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới sự tập trung nhận thức của học sinh vào những vấn đề đang học. Đồng thời, giáo viên cần sử dụng ngữ điệu phù hợp với tài liệu văn học, với nội dung sự kiện lịch sử cần minh hoạ phải đưa vào bài giảng 1 cách hợp lí, lôgíc.... làm được điều đó thì tính thuyết phục, hấp dẫn sẽ tăng lên rất nhiều.
	Nói tóm lại, việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử là 1 trong những cách thức để giáo viên đưa tài liệu tham khảo vào trong giờ dạy sử. Thực hiện theo sơ đồ dạy học của Đairi, qua đó hoàn thành mục tiêu bài học, kế hoạch dạy học và nâng cao chất lượng bộ môn trong trường phổ thông.
 2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Phương pháp kiểm nghiệm
Để đánh giá hiệu quả của đề tài tôi đã sử dụng phiếu điều tra về hứng thú học tập của học sinh 
Lưu ý: Phiếu điều tra dùng để đánh giá hiệu quả của đề tài cho nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng cả trước và sau tác động là giống nhau.
2.4.2. Kết quả kiểm nghiệm
 a. Đối với lớp đối chứng (Năm học 2014-2015)
- Về hứng thú học tập:
 Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn lịch sử khi học phần lịch sử Việt Nam (Khi chưa sử dụng SKKN ) kết quả như sau: 
Lớp
Sĩ số
Mức độ hứng thú
Rất thích
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
SL
%
12A4
47
7
14,9
21
44,7
19
40,4
- Về kết quả học tập cuối học kì I:
 Bảng thống kê về kết quả học tập cuối học kì II của học sinh đối với môn lịch sử ở lớp 12A4(Khi chưa sử dụng các SKKN) kết quả như sau: 
Lớp
Sĩ số
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12A4
47
0
0
17
36,1
24
51,1
6
12,8
b. Đối với lớp thực nghiệm (Năm học 2015-2016)
- Về hứng thú học tập:
Lớp 12B2 (Khi sử dụng SKKN) kết quả như sau: 
Lớp
Sĩ số
Mức độ hứng thú
Rất thích
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
SL
%
12B2
45
20
44,4
19
42,2
6
13,4
- Về kết quả học tập cuối học kì I:
 	Bảng thống kê về kết quả học tập cuối học kì II của học sinh ở lớp 12B2 (Khi chưa sử dụng SKKN ) kết quả như sau: 
Lớp
Sĩ số
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12b2
45
7
15,5
22
48,9
16
35,6
0
0
	Qua 2 bảng thống kê ta thấy có sự thay đổi hoàn toàn về hứng thú cũng như kết quả học tập của học sinh khi Chưa sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường THPT và khi đã sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường THPT . Khi chưa sử dụng SKKN vào giảng dạy ở lớp 12A4 số lượng học sinh hứng thú với môn học chỉ chiếm 14,9% nhưng khi đã sử dụng SKKN vào trong quá trình giảng dạy ở lớp 12B2 số học sinh hứng thú với môn học tăng lên rõ rệt, chiếm 44,4%. Mặt khác trong các giờ học, học sinh học tích cực chủ động hơn, các em hăng hái tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài làm cho giờ học lịch sử trở nên sôi nổi hơn. Vì vậy kết quả học tập cuối học kì I ở cả 2 lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác nhau. Ở lớp 12A4 khi chưa sử dụng SKKN vào giảng dạy không có học sinh đạt loại giỏi, loại yếu, kém chiếm tới 12,8%. Nhưng khi đã sử dụng SKKNvào trong quá trình giảng dạy ở lớp 12B2 số học sinh đạt loại giỏi tăng lên rõ rệt, chiếm 15,5%, đặc biệt không còn học sinh xếp loại yếu, kém nữa.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
 3.1. Kết luận 
 Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết sinh động, cụ thể về lịch sử dân tộc; giúp các em hiểu được mối quan hệ qua lại mật thiết giữa văn học với lịch sử; làm cho bài giảng lịch sử trở nên gần gũi, có sức hấp dẫn, thuyết phục, gây hứng thú và kích thích sự yêu thích của các em đối với môn học. Từ sự yêu thích đó, học sinh sẽ tích cực tìm tòi những kiến thức lịch sử mà các em chưa biết, giáo viên sẽ khơi dậy được khả năng tư duy độc lập sáng tạo, sự phát triển năng lực nhận thức và niềm say mê học tập ở các em. Đây cũng là con đường ngắn nhất để tạo biểu tượng lịch sử, dẫn đến hình thành khái niệm và rút ra những bài học kinh nghiệm cho thực tiễn. Qua đó, bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào về quá khứ hào hùng của cha ông, về truyền thống quý báu của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Giáo dục cho các em tình yêu quê hương, biết kính trọng nhân dân lao động qua nhiều thế hệ. Đồng thời giúp các em nhận thức đầy đủ hơn về ý thức trách nhiệm trong việc gìn giữ những giá trị truyền thống quý báu mà cha ông để lại.
 Tuy nhiên, người giáo viên phải hết sức lưu ý khi sử dụng nguồn tài liệu này bởi tài liệu văn học vô cùng phong phú, đa dạng. Trong một tiết học ta có thể tìm thấy rất nhiều những áng thơ văn có liên quan đến nội dung bài học. Thế nhưng thời lượng tiết học lại có hạn. Chính vì vậy, người giáo viên phải nắm chắc mục tiêu bài học, vận dụng “sơ đồ Đai ri” để lựa chọn tài liệu văn học sao cho phù hợp với mục tiêu bài giảng. và thời gian quy định trong chương trình, không làm loãng kiến thức lịch sử dân tộc, không “biến giờ sử thành giờ ngữ văn” góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. Để thực hiện được điều này, người giáo viên nên đưa ra và trả lời các câu hỏi: “Sử dụng tài liệu để làm gì?”, “Sử dụng cho đơn vị kiến thức nào?”, “Vì sao phải sử dụng?”, “hình thức sử dụng như thế nào?” Đây là cách làm thể hiện tính khoa học và cũng là thể hiện ý thức trách nhiệm của giáo viên khi giảng dạy lịch sử dân tộc.
 Đồng thời việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông, không ngừng tăng cường áp dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giờ học lịch sử (Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ, dạy học nêu vấn đề, dạy học liên môn....) 
 Với suy nghĩ như vậy, tôi mạnh dạn trình bày quan điểm cùng kinh nghiệm của mình về vấn đề sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp. Tuy nhiên, do bản thân còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều nên có thể còn có những điểm chưa sâu, chưa toàn diện còn sơ sài. Rất mong sự đóng góp của các đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn.
 3.2.Kiến nghị 
 Từ kết quả đạt được bước đầu trong sáng kiến kinh nghiệm và từ thực tiễn dạy học hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một vài kiến nghị sau :
 - Một là, phải thay đổi mặt nhận thức của giáo viên về vai trò, tác dụng của tài liệu văn học trong dạy học lịch sử, cải tiến phương pháp dạy học lịch sử thông qua các buổi tập huấn, học tập chuyên đề của nhà trường, các cụm trường
 - Hai là, bản thân người giáo viên phải chịu khó đầu tư thời gian, công sức để sưu tầm tài liệu, sắp xếp thành hệ thống theo từng tiết học, từng chương, từng phần phù hợp với nội dung và kiến thức cơ bản trong SGK. Mỗi đoạn tài liệu nên xác định luôn biện pháp sử dụng cho tiện lợi. 
 - Ba là, giáo viên cần đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với học sinh trong quá trình dạy học như sưu tầm tài liệu trước ở nhà theo định hướng của giáo viên.
 - Cuối cùng, các cấp quản lý phải thực sự quan tâm, tạo điều kiện, động viên khuyến khích giáo viên sử dụng loại tài liệu này; tổ chức các buổi hội thảo, tập trung những giáo viên giỏi, có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề để chung tay sưu tầm, chỉnh lý và biên soạn thành hệ thống tài liệu cần thiết cho cả chương trình và kèm theo các phương pháp sử dụng cho từng đoạn tài liệu một. 
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hoá, ngày 20 tháng 5 năm 2016
 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình, không sao chép nội dung của người khác. 
 Người viết
 Lê Thị Ngân

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK lịch sử lớp 10, 11, 12. NXB giáo dục.
2. Sách “ Phương pháp dạy học lịch sử” ( Tập 1 ), NXB giáo dục.
3. Sách “ Phương pháp dạy học lịch sử” ( Tập 2 ), NXB giáo dục.
4.Tác phẩm : Lịch sử nước ta của chủ tịch Hồ Chí Minh 
5.Thơ văn Ngyễn Đình Chiểu – Nhà xuất bản văn học Hà Nội 1963
6.Một số tác phẩm văn học 
 -Tắt đèn ( Ngô Tất Tố )
 -Bước Đường Cùng ( Nguyễn Công Hoan )
 -Lão Hạc ( Nam Cao)
7.Tiểu thuyết :Đêm Hội Long Trì 
8.Tác phẩm : Hoàng Lê Nhất Thống Trí
9.Tuyển tập thơ Tố Hữu 
10. Sách: Chuẩn bị bài học lịch sử như thế nào. ( NXB giáo dục Hà Nội 1973)

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_tai_lieu_van_hoc_trong_day_hoc.doc