Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII. Lịch sử lớp 10 - Chương trình cơ bản

Bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ, con người phải đối diện với những vấn đề phức tạp và để giải quyết được những vấn đề phức tạp ấy, đòi hỏi thế hệ trẻ phải được trang bị đầy đủ không chỉ về mặt kiến thức mà còn về phương pháp luận, phương pháp tư duy và hành động trong thực tiễn, đòi hỏi giáo dục phải đi trước, mở đường cho sự phát triển chứ không phải đi sau, phản ánh sự phát triển của xã hội loài người. Có thể nói, giáo dục - đào tạo đang bị sức ép từ nhiều phía, nhất là sức ép giữa lượng trí thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận có giới hạn của con người. Trong khi mặt bằng chất lượng giáo dục – đào tạo trên thế giới còn chênh lệch thì yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo ở nước ta ngày càng trở nên cấp thiết.

Hiện nay, quan niệm dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm” đã và đang đạt hiệu quả tốt bởi sự nỗ lực của những người làm công tác giáo dục, những nhà giáo tận tâm không ngừng vận dụng các kỹ thuật dạy học mới, đổi mới phương pháp cho phù hợp với kiểu bài, với đặc trưng bộ môn, biết tích hợp các nội dung vào bài học và vận dụng kiến thức liên môn để làm rõ vấn đề.

doc 35 trang SKKN Lịch Sử 19/08/2025 90
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII. Lịch sử lớp 10 - Chương trình cơ bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII. Lịch sử lớp 10 - Chương trình cơ bản

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII. Lịch sử lớp 10 - Chương trình cơ bản
hịch nửa mỉa mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn tròn trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai. Tượng La Hầu La đúng là chân dung một cụ già Việt Nam, thân hình gầy gò, mặt dài, nhỏ, gò má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy pho tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp đến như thế. Dáng điệu một tay cầm gậy, một tay để trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ từng đốt xương bên trong. Những người thợ mộc của làng nghề mộc truyền thống đã là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam. Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh.
	...Các vị ngồi đây trong lặng yên
	Mà nghe giông bão nổ trăm miền
	Như từ vực thẳm đời nhân loại
	Bóng tối đùn ra trận gió đen...
	...Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
	Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
	Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
	Cho đến bây giờ mặt vẫn chau...
3.2. Chắt lọc nguồn tư liệu, xây dựng ý đồ cho bài giảng sử dụng tư liệu lịch sử đảm bảo thời gian, phù hợp với nội dung từng mục từng phần trong bài giảng.
	Tập hợp tư liệu mới chỉ là khâu đầu tiên của quá trình soạn giảng, khi đã tập hợp đầy đủ nguồn tư liệu phục vụ cho một tiết dạy giáo viên đã có thể nắm rất rõ, sâu sắc và phong phú nội dung về một vấn đề lịch sử cần cung cấp đến học sinh. Song không phải tất cả tư liệu tập hợp đều có thể đem ra sử dụng trong một tiết học, như vậy không những không phát huy được tính tích cực của việc sử dụng tư liệu mà thậm chí còn có tác dụng ngược lại, dễ gây tâm lý nhàm chán và mệt mỏi cho cả người học lẫn người dạy. Vì thế việc chắt lọc nguồn tư liệu là một bước hết sức quan trọng để đạt hiệu quả bài giảng như mong đợi. 
	Ví dụ như khi dạy bài 22 (Lịch sử 10- chương trình cơ bản), bên cạnh những nguồn tư liệu về ngành thủ công truyền thống và nghề mới để làm rõ sự phát triển của thủ công nghiệp thời kỳ này, từ đó tạo cho học sinh sự so sánh ngầm đối với thời kỳ trước. Ngoài việc minh họa về sự xuất hiện của nghề làm đường trắng, giáo viên có thể cung cấp thêm về nghề làm đồng hồ, song không thể đọc cả câu chuyện kể về người Việt Nam đầu tiên biết chế tạo đồng hồ máy như tư liệu tập hợp mà tùy khung thời gian cho phép, giáo viên tóm lược, chắt lọc để cung cấp cho học sinh, thậm chí cũng chỉ cần cung cấp tên người Việt Nam đầu tiên biết chế tạo đồng hồ máy.
	Hoặc đối với bài 23, khi làm rõ chính sách chấn chỉnh giáo dục thi cử của vương triều Tây Sơn, giáo viên giúp học sinh liên hệ đến tác phẩm chiếu Cầu hiền của Ngô Thi Nhậm và dẫn một đến hai dòng để làm rõ....
	Khi kể chuyện về Alexandre cũng chỉ trích dẫn: ông là một nhà truyền giáo, góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ ở Việt Nam hiện đại, hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh. Ông sang Việt Nam truyền giáo và đây trở thành quê hương thứ hai của ông.
3.3. Vận dụng nguồn tư liệu lịch sử nhằm đảm bảo đáp ứng yêu cầu dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, tăng khả năng tư duy, tính độc lập và sáng tạo cho người học, lôi cuốn, tạo hứng thú và nâng cao chất lượng bộ môn.
	Tư liệu lịch sử không phải chỉ để giáo viên đọc, dẫn. Như vậy sẽ không phát huy được hiệu quả của bài giảng dạy học tích cực. Giáo viên phải có cách thức vận dụng và khai thác, phát huy tối đa tư duy và nhận thức của học sinh. Giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn, điều hành. Học sinh tham gia chủ động lĩnh hội kiến thức. Có những tư liệu, giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu trước, những câu chuyện không còn là cô kể cho trò nghe mà biến nó thành điều ngược lại, trò tìm hiểu và kể cho cô nghe. Như vậy học sinh sẽ khắc sâu hơn về kiến thức được lĩnh hội, đồng thời phát huy được tính chủ động.
	Ví dụ khi nói về nguyên nhân sụp đổ của triều Lê sơ, giáo viên đưa lược đồ phong trào đấu tranh của nhân dân cho học sinh quan sát và đặt câu hỏi: Nhìn vào lược đồ, em có nhận xét gì? Vì sao lại như vậy? Từ việc quan sát và tư duy học sinh có thể trả lời và khắc sâu hơn về nguyên nhân của những phong trào đấu tranh đó, đồng thời lĩnh hội kiến thức ở mục mới một cách lô-gic và chủ động.
	Khi nói về Mạc Đăng Dung, giáo viên chưa sử dụng tư liệu mà đặt câu hỏi: Em biết gì về nhân vật này? Như vậy sẽ kích thích khả năng tìm tòi và hiểu thêm về cách học Lịch sử ngoài những nội dung mà sách giáo khoa cung cấp.
	Khi đánh giá về chính sách của nhà Mạc trong giai đoạn đầu, học sinh đã có thể dựa vào sách giáo khoa và quá trình lĩnh hội kiến thức để trả lời, từ đó giáo viên dẫn lời trích trong sách Đại Việt sử ký toàn thư: " Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không........., trong cõi tạm yên"
	Hoặc khi dạy bài 24: Tình hình văn hóa ở các thế kỷ XVI- XVIII. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ một cách cụ thể và chi tiết cho học sinh từ tiết học trước. Cụ thể, yêu cầu học sinh tìm hiểu: 
	- Nguồn gốc, quan điểm của Đạo thiên chúa, công cuộc truyền giáo của Alexandorot. 
	- Nét đẹp trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. 
	- Các tác phẩm văn học (chủ yếu chữ Nôm) và công trình kiến trúc của Việt Nam thế kỷ XVI-XVIII. 
	Khi giảng về tư tưởng tôn giáo, nói đến sự xuất hiện và du nhập của Đạo Thiên chúa giáo vào nước ta, giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh thực sự được hòa nhập vào hoạt động học bằng cách bày tỏ sự hiểu biết của bản thân trước tập thể. Cụ thể như: Ở lớp có bạn nào theo Đạo thiên chúa không? Em biết gì về nguồn gốc ra đời và giáo lý của Đạo Thiên chúa? Truyền bá vào Việt Nam theo con đường nào?........ Như vậy sẽ làm cho không khí tiết học sôi nổi và tạo hứng thú tiếp nhận kiến thức của học sinh một cách chủ động. Cùng với hoạt động học của học sinh, giáo viên dẫn tư liệu về công cuộc truyền đạo của nhà truyền giáo Alexandorot và chốt ý.
	Cũng tương tự như vậy, khi giảng về tín ngưỡng giáo viên cũng yêu cầu học sinh tự trình bày phần chuẩn bị của mình về nét đẹp trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam biểu hiện như thế nào, được gìn giữ và phát huy ra sao trong cuộc sống hiện đại. Từ đó học sinh sẽ khắc sâu hơn kiến thức về tư tưởng tôn giáo thời kỳ này không chỉ du nhập những yếu tố tôn giáo mới mà những nét đẹp trong bản sắc văn hóa dân tộc vẫn được bảo tồn và phát huy. Khi các em được trực tiếp tham gia và trở thành trung tâm của hoạt động học, sẽ giúp các em khắc sâu kiến thức, như vậy hiệu quả bài học không chỉ đáp ứng về kiến thức, giáo dục mà còn đạt tính giáo dưỡng rất cao.
	Khi dạy về văn học chữ Nôm với các tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ, Phùng Khắc Khoan..... có thể để học sinh tự nêu hiểu biết của bản thân về một trong các tác giả có tên trong bài. Giáo viên có thể trích dẫn ngắn gọn về Nguyễn Bỉnh Khiêm: "...........lớn lên trong thời đại loạn (thời Lê sơ lâm vào khủng hoảng suy tàn). Khi làm quan, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng vua không nghe, ông cáo quan về vườn mở trường dạy học..". Trích bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
	Ngư ông bất ngộ Ðào Nguyên khách
	Khởi thức hưng vong thế cổ kim
	Nhàn trung hoa thảo túc cung xuân
	Tà dương độc lập đô vô sự
	Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
	Người khôn người đến chốn lao xao
	Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
	Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
	( Như vậy, có thể thấy không phải lúc nào giáo viên cũng là người cung cấp tư liệu. Song có những nguồn tư liệu giáo viên phải là người dẫn để làm sáng tỏ vấn đề. Sử dụng tư liệu phải luôn phù hợp và linh hoạt với từng mục, từng phần trong bài giảng. Có như vậy mới phát huy tác dụng tối đa.)
4. Tác dụng của việc sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học ở trường THPT.
	Thứ nhất: Kích thích tới giác quan , tăng sự chú ý, hứng thú và quan tâm của người học. Khiến người học xác định được động cơ, hứng thú, sự tập trung chú ý theo dõi bài giảng và từ đó tích cực tham gia vào quá trình nhận thức, khiến học sinh khao khát muốn biết, muốn tìm hiểu lịch sử. Đây là tác dụng lớn nhất.
	Thứ hai: Thông qua nguồn tư liệu phong phú có thể tái tạo được quá khứ một cách chân thực nhất và lý giải tài liệu, sự kiện, hiện tượng lịch sử sâu sắc ,toàn diện nhất, hiểu được bản chất của sự kiện, mối liên hệ giữa sự kiện này với sự kiện khác, hiện tượng này với hiện tượng khác và giải thích được quy luật của sự kiện lịch sử.
	Thứ ba: Học sinh được củng cố kiến thức được tiếp nhận một cách tự nhiên và biết vận dụng tri thức lịch sử trong sách vở vào cuộc sống.
	Thứ tư: Quan trọng nhất là tạo được niềm yêu thích tìm tòi, khám phá bộ môn, chất lượng bộ môn ngày càng nâng cao.
	Ngoài ra, khi sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy học, bản thân giáo viên cũng được khám phá những điều mới mẻ, hiểu sâu sắc về quá trình lịch sử đang học, từ đó tìm ra phương pháp dạy học lịch sử phù hợp nhất, tạo hiệu quả cao nhất.
5. Một số lưu ý khi sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học.
	Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học giúp giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn học sinh, giúp học sinh có cái nhìn đa chiều đối với một sự kiện, một nhân vật, một hiện tượng lịch sử, dễ dàng đưa kiến thức bộ môn đến với người học . Tuy vậy, theo tôi phải đảm bảo các yêu cầu sau:
	Thứ nhất: Tư liệu lịch sử phải đảm bảo có giá trị giáo dưỡng, giáo dục, là một bức tranh sinh động về quá trình lịch sử đang học và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
	Thứ hai: Tư liệu lịch sử phải phù hợp với đặc thù của từng kiểu bài, từng mục và từng phần.
	Thứ ba: Cần có sự lựa chọn kĩ càng, phải loại bỏ những yếu tố không phù hợp, sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, ngắn gọn, xúc tích mang tính hệ thống và loogic cao.
	Thứ tư: Cần biết tạo điểm nhấn đối với mỗi tư liệu để làm sáng tỏ quá trình lịch sử cần đạt. Không phải tất cả tư liệu đưa ra đều đọc hết gây sự mệt mỏi và nhàm chán cho học sinh
	Thứ năm: Sử dụng tư liệu như một kênh thông tin để kích thích sự tìm tòi, tư duy khai thác và sáng tạo của học sinh.
	 Nói tóm lại, việc sử dụng tư liệu lịch sử là một trong cách mà giáo viên vận dụng để nhằm đạt kết quả cuối cùng là hoàn thành mục tiêu bài học, kế hoạch dạy học và nâng cao chất lượng bộ môn trong trường phổ thông.
6. Kết quả áp dụng
	Sau thời gian nghiên cứu và thực hiện với đối tượng học sinh các lớp 10A6 đến 10D tại trường THPT số 1 thành phố Lào Cai với cách thức sau:
	- Đối với các lớp 10A8, 10C, 10D thường xuyên tiến hành sử dụng tư liệu lịch sử phục vụ bài giảng
	- Đối với các lớp 10A6, 10A7 không thực hiện.
	Qua các loại bài kiểm tra, phiếu TEST thu được kết quả so sánh như sau:
Các mức độ
Các lớp thực hiện
Các lớp ít thực hiện
Hứng thú học tập bộ môn

Tăng
Không tăng
Khả năng ghi nhớ sự kiện, nhân vật
- Nhanh.
- Nhiều, hiểu rõ sự kiện.
- Mức độ chậm.
Khả năng làm bài phân tích sự kiện

- Đa dạng, phân tích có chiều sâu.
- Chủ yếu học thuộc lòng, ghi nhớ các sự kiện.
Công tác giáo dục tư tưởng

Học sinh có tình cảm, thái độ đúng đắn đối với sự kiện, nhân vật.
- Học sinh có thái độ đúng đắn đối với sự kiện, nhân vật.
 
 Kết quả thực nghiệm cụ thể ở bài 24 “ Tình hình văn hóa ở các thê kỷ XVI-XVIII". ( Lịch sử 10- chương trình chuẩn): 
Bảng 1.a (Giáo án không sử dụng tư liệu lịch sử)
Lớp
Tổng số phiếu
Hứng thú với bài giảng (%)
Đạt chuẩn kiến thức (%)
Mức độ hiểu bài
(%)
10A6
41
22/41 = 54%
27/41 = 66%
27/41 = 66%
10A7
36
22/36= 61%
22/36 = 61%
23/36 = 64%

 Bảng 1.b (Giáo án sử dụng tư liệu lịch sử)
Lớp
Tổng số phiếu
Hứng thú với bài giảng (%)
Đạt chuẩn kiến thức (%)
Mức độ 
hiểu bài
10A8
34
31/34 = 91,1%
32/34 = 94,1%
33/34 = 97%
10C
26
24/26 = 92,3%
25/26 = 96,1%
25/26 = 96,1%
10D
31
29/31 = 93,5%
30/31 = 96,7%
31/31 = 100%

Qua hai bảng trắc nghiệm 1.a và 1.b ta thấy: Đối với giáo án không sử dụng tư liệu lịch sử thì kết quả thu được chỉ ở mức độ trung bình hoặc trên trung bình một chút. Cùng bài đó khi có sử dụng thì kết quả thu được khác hẳn .Ở lớp 10D: 30/31 phiếu trắc nghiệm đạt tiêu chuẩn về nắm vững kiến thức cơ bản ngay trên lớp (đạt >96%). 100% học sinh cho rằng mình hiểu bài từ mức độ trung bình trở lên. 96% học sinh chấp nhận cách dạy mà giáo viên vừa áp dụng với bài vừa học. 
Như vậy cùng một nội dung kiến thức nhưng khi sử dụng các phương pháp dạy học khác nhau thì thu được kết quả có sự khác biệt. Tôi thấy chất lượng của một bài giảng ngoài sự chuẩn bị chu đáo như năng lực, tổ chức điều khiển của người thầy thì trình độ học lực, nhu cầu hứng thú của người học đóng vai trò to lớn.
	Qua quá trình thực hiện, kết quả đáng mừng là số học sinh có hứng thú học tập bộ môn tăng, số chất lượng dạy học bộ môn tăng. Nhiều em đã tích cực tham gia ôn tập và dự thi HSG bộ môn cấp tỉnh đạt kết quả khá cao.
	Như vậy đánh giá đề tài có hiệu quả thực thi
PHẦN KẾT LUẬN
1. Tự nhận xét:
	Thực hiện mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông, đội ngũ giáo viên lịch sử không ngừng tăng cường áp dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giờ học lịch sử (Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ, dạy học nêu vấn đề, dạy học liên môn) 
	Việc sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học vừa thực hiện phương pháp dạy học liên môn, vừa làm cho bài học trở nên sinh động, hấp dẫn. Qua đó giúp học sinh nhận thức rõ bản chất của sự kiện lịch sử, hiểu thêm về quá trình lịch sử mà các em đang nhận thức. Quan trọng hơn, nó sẽ lấy lại hứng thú học tập bộ môn, lòng say mê học tập lịch sử của học sinh.
	Với suy nghĩ như vậy, tôi mạnh dạn trình bày quan điểm cùng kinh nghiệm của mình về vấn đề này để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp. Rất mong sự đóng góp của các đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn.
	Như vậy có thể khẳng định việc sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học Lịch sử nói chung và Lịch sử Việt Nam qua từng giai đoạn nói riêng là hết sức cần thiết, từ đó cả giáo viên và học sinh có thể tự đảm bảo được các yếu tố sau:
- Đối với giáo viên: Nâng cao năng lực chuyên môn, phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng sự say mê với công việc.
- Đối với học sinh: Nắm vững kiến thức Lịch sử 10, phần Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII- chương trình cơ bản và kiến thức bổ trợ cần thiết. Có kĩ năng ph©n tÝch, so s¸nh, ®¸nh gi¸, tæng hîp mét sù kiÖn hoÆc mét vÊn ®Ò LÞch sö. Biết vận dụng kiến thức cũ để hiểu kiến thức mới....
2. Đề nghị
Vận dụng đề tài vào việc giảng dạy Lịch sử 10 từ thế kỷ XVI-XVIII chương trình sách giáo khoa Lịch sử- chương trình chuẩn tại các tr­êng phæ th«ng trong toµn tØnh Lµo Cai.
IV. CÁC DANH MỤC TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên- Trần Văn Trị: Phương pháp dạy học Lịch sử, NXB Giáo dục- XB 2000.
2. Sách giáo khoa Lịch sử 10- NXB Giáo dục
3. Trịnh Đình Tùng: Bài viết năm vấn đề đổi mới dạy học Lịch sử thời hội nhập
4. Tạp chí hoạt động khoa học: Bài viết dạy và học môn Lịch sử hiện nay- Thực trạng và giải pháp tháo gỡ.
5. Sáng kiến kinh nghiệm sử dụng tư liệu trong dạy học Lịch sử ở trường THPT của đồng chí Trần Thị Hải- nguyên giáo viên trường THPT chuyên Lào Cai.
6. Một số bài viết về kĩ thuật dạy học mới được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_tu_lieu_lich_su_trong_day_hoc.doc
  • docdon_va_bc_skkn_2014.doc