Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử dạy học lớp 10 phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X-XV

Ngày nay cuộc sống đang thay đổi và tiến lên từng giờ. Đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của nền văn minh tin học, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Đây là cơ hội và cũng là thách thức đối với đất nước ta. Trong khi đó chúng ta đang gặp nhiều khó khăn trở ngại do chất lượng và hiệu quả giáo dục-đào tạo còn đang thấp hơn so với yêu cầu của sự phát triển đó.

Mặt khác, trong xu thế hội nhập với thế giới, bên cạnh những nền văn hoá tiến bộ, có rất nhiều mảng văn hoá đen vẫn còn len lỏi và dễ dàng lan nhanh trong giới trẻ. Điều đó dẫn đến bản sắc dân tộc đang dần mất đi, mà nhiều người Việt Nam lại đang quên đi nguồn gốc, lịch sử dân tộc. Vì vậy một trong những vấn đề trọng tâm của nước ta là đầu tư phát triển nhân tố con người, tức là đầu tư cho giáo dục và đào tạo để tạo ra những con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành nhân cách và phẩm chất năng lực của công dân, nhất là bản lĩnh văn hoá vững vàng trước sự hội nhập. Môn lịch sử có vai trò không nhỏ góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.

docx 21 trang SKKN Lịch Sử 05/10/2025 140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử dạy học lớp 10 phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X-XV", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử dạy học lớp 10 phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X-XV

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử dạy học lớp 10 phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X-XV
 địa lí gặp nhiều khó khăn, giáo viên có thể tổ chức một bài ngoại khóa với hình thức kể chuyện lịch sử.
	Kể chuyện lịch sử là một hình thức ngoại khóa hấp dẫn, dễ làm và có hiệu quả giáo dục cao.
	Kể chuyện lịch sử không phải là thông báo khô khan, kể chuyện lịch sử phải đưa người nghe sống lại quá khứ, như đang được chứng kiến tận mắt. Để làm được điều này trước hết học sinh phải chuẩn bị kỹ càng, phải đọc thuộc truyện, kể không những khúc triết, rõ ràng tái hiện lại được nội dung sự kiện lịch sử mà còn cuốn hút, hấp dẫn người nghe.
	Giaó viên cần chuẩn bị những hình ảnh để minh hoạ cho câu chuyện lịch sử mình sẽ kể để khắc sâu cho trí nhớ của các em mà khi nào có điều kiện thực tế các em sẽ được đến đó để tham quan tìm hiểu trên cơ sở kiến thức đã được giáo viên cung cấp.
	Ví dụ 5: Trong buổi học ngoại khoá tháng 12/2020 với chủ đề lịch“ Những nhân vật và di tích lịch sử Thanh Hoá ” giáo viên giới thiệu nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly cùng với công trình kiến trúc nổi bật thành nhà Hồ (Vĩnh Lộc – Thanh Hoá) được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới; nhân vật lịch sử Lê Lợi, gắn liền với khởi nghĩa Lam Sơn và di tích lịch sử Lam Kinh (Thọ Xuân - Thanh Hoá). Đồng thời liên hệ với Bài 19- Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X- XV.
	Trước khi giới thiệu tư liệu về các nhân vật và di tích lịch sử, giáo viên gọi 5 học sinh lên chơi trò chơi: Nhớ nhanh lịch sử. Ba bạn trả lời đúng và nhanh nhất sẽ có một phần quà .
Câu hỏi chung cho cả 5 bạn: Em hãy kể tên những di tích lịch sử của Thanh Hoá?
	Học sinh có thể nhắc đến: thành nhà Hồ, Lam Kinh, cầu Hàm Rồng
Ba bạn trả lời đúng và nhanh nhất được trao quà, sau đó giáo viên dẫn dắt: Mỗi di tích lịch sử mà các bạn vừa nhắc đến đều gắn liền với những nhân vật lịch sử nổi bật đã để lại dấu ấn trong lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương Thanh Hoá. Đó đồng thời cũng là niềm tự hào của những người con Thanh Hoá xứ “ địa linh nhân kiệt”. Trong thời gian từ thế kỉ X-XV có hai nhân vật lịch sử gắn liền với di tích lịch sử mà các em đã biết, đó là Hồ Quý Ly và Lê Lợi. 
	Trước hết là nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly với triều đại nhà Hồ chỉ tồn tại một thời gian ngắn (1400-1407), nhưng với những tư tưởng cải cách tiến bộ và công trình kiến trúc nổi bật là Thành nhà Hồ, ông cũng xứng đáng được lịch sử lưu danh.
Hai cha con Hồ Quý Ly - Hồ Nguyên Trừng và súng thần cơ (thần công)
( Nguồn Internet)
	Hồ Quý Ly (1400-1401) tự là Thánh Nguyên, cháu 16 đời của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, vốn gốc thuộc tộc Việt ở Chiết Giang, phương nam Trung Quốc, đời Hậu Hán (thời Ngũ Qúy) sang làm Thái thú Diễn Châu, sau định cư ở hương Bào Đột (Nghĩa Đàn, Nghệ An). Nhà Hồ cho đo đạc lại ruộng đất, cải cách chế độ thi cử, mở mang việc giáo dục, tăng cường quân đội thường trực, xây dựng các tuyến phòng thủ, lập xưởng đúc binh khí kỹ thuật để chống giặc phương Bắc.  Các cải cách của Hồ Quý Ly có tính chất toàn diện, có những cải cách đi trước thời đại, giá trị thực tiễn của nó đến nay vẫn còn hấp dẫn, nhiều nhà kinh tế nước ngoài đã ca ngợi Hồ Quý Ly là một nhà cải cách kinh tế lớn.
Hồ Nguyên Trừng (1374-1446) là nhà quân sự, là nhà công trình sư lỗi lạc. Ông là con trai cả của Hồ Quý Ly và anh của Hồ Hán Thương. Năm 1400 Hồ Quý Ly phế ngôi nhà Trần, lên ngôi vua, lập ra nhà Hồ, ông được giao chức Tả tướng quốc. Năm 1406 lấy cớ “ Phù Trần, diệt Hồ”, vua Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh mang 80 vạn quân sang đánh nước Việt. Nhiều lần Hồ Nguyên Trừng được giao nhiệm vụ cầm quân chống lại. Việc ông lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then chốt Đa Bang (Ba Vì) kéo dài theo bờ nam sông Đà, sông Hồng cho đến sông Ninh (Nam Hà) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài 400 km. Hồ Nguyên Trừng cũng sáng tạo ra cách đánh độc đáo: ông cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị bằng hoả lực mạnh. Hồ Nguyên Trừng tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá mạnh. Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng “ thần cơ” (thần công).
 Cổng phía Nam thành nhà Hồ 
 (Nguồn Internet)
	Thành Nhà Hồ thuộc địa phận của tỉnh Thanh Hóa ngày nay từng là kinh đô của nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407. Đây là một trong những thành lũy bằng đá hiếm hoi còn sót lại tại Đông Nam Á. UNESCO đã công nhận Thành Nhà Hồ là Di sản văn hóa thế giới vì những giá trị văn hóa, lịch sử cùng kỹ thuật xây dựng độc đáo của công trình này mang lại. 
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, dưới thời vua Trần Thuận Tông. Trong lịch sử, thành còn được biết đến với các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai. Thành được xây dưới sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly lúc ông đương nhậm chức tể tướng dưới thời nhà Trần.
Sau khi thành xây xong, Hồ Quý Ly buộc vua Trần Thuận Tông dời đô từ Thăng Long (nay là Hà Nội) về Thanh Hóa. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay cho nhà Trần, Thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô, và Hồ Quý Ly lấy quốc hiệu là Đại Ngu, tức niềm hạnh phúc, an vui. Tuy vậy triều đại này chỉ kéo dài vỏn vẹn 7 năm, là triều đại ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam.
Giáo viên tiếp tục dẫn dắt: Ngoài thành nhà Hồ là kinh đô của nhà nước Đại Ngu đóng đô ở Vĩnh Lộc (Thanh Hoá) bạn nào cho cô và các bạn biết:
Cố đô của nhà Lê ở Thanh Hoá là địa danh nào? 
	Sau đó giáo viên giới thiệu về địa danh Lam Kinh (Thọ Xuân - Thanh Hoá) gắn liền với nhân vật lịch sử tiếp theo, người đã mở đầu cho triều đại Hậu Lê, triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, với hai giai đoạn: Lê sơ (99 năm) và Lê Trung Hưng (hơn 250 năm) đó chính là Lê Lợi.
Lê Lợi sinh ngày 6 tháng Tám năm Ất Sửu - 10/9/1385, là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn.
Mùa xuân năm Mậu Tuất - 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Sau hội thề Đông Quan, ngày 29/12/1427, bại binh của giặc bắt đầu được phép rút quân về nước an toàn, đến ngày 3/1/1428, bóng dáng quân Minh cuối cùng đã bị quét sạch khỏi bờ cõi.
Ngày 15 tháng Tư năm Mậu Thân - 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi Vua tại điện Kính Thiên xưng là "Thuận Thiên thừa vận, Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương" đặt tên nước là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Hà Nội) đại xá thiên hạ, ban bố "Bình Ngô đại cáo" - đây chính là "Tuyên ngôn độc lập" lần thứ 2 của tổ quốc ta. Bình Ngô đại cáo mở đầu ghi:
"... Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác..."
"Bình Ngô đại cáo" do Nguyễn Trãi thảo là một thiên anh hùng ca tuyệt vời, bất hủ, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống quật cường, bất khuất của dân tộc ta.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lời bàn: "Lê Thái Tổ từ khi lên ngôi đến khi mất, thi hành chính sự, thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa rộng, mở mang cơ nghiệp...". Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng Tám năm Quý Sửu - 1433, hưởng thọ 49 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn, Thanh Hoá, trị vì được 5 năm.
Tượng đài Lê Lợi tại thành phố Thanh Hoá (Nguồn Internet)
 Khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh (Thọ Xuân – Thanh Hoá) vốn là đất Lam Sơn, quê hương của anh hùng Lê Lợi, là nơi nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh (1418-1428). Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ), lập nên vương triều Hậu Lê, đóng đô ở Thăng Long (Đông Kinh), mở ra thời kì phát trển mới cho quốc gia Đại Việt. Năm 1430, Lê Thái Tổ đổi tên vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh (Tây Kinh). Kể từ đó, các kến trúc điện, miếu cũng bắt đầu được xây dựng tạ đây, gắn với hai chức năng chính: Điểm nghỉ chân của các vua Lê khi về cúng bái tổ tiên, đồng thời cũng là nơi ở của quan lại và quân lính thường trực trông coi Lam Kinh; Khu tập trung lăng mộ của tổ tiên, các vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê và một số quan lại trong hoàng tộc.
 Khu hoàng thành, cung điện và thái miếu của kinh thành Lam Kinh vẫn giữ được nguyên vẹn cho đến ngày nay, với cách bố trí hình bàn cờ gồm khu ngọ môn, sân rồng, chính điện, thái miếu
 Với thời gian có hạn của một bài ngoại khoá, giáo viên chỉ giới thiệu sơ lược về di tích lịch sử Lam Kinh, sau đó hướng dẫn các em về nhà tham khảo trên Internet để tìm hiểu thêm về di tích này, đồng thời là cơ sở để sau này các em sẽ được tham quan địa danh khi có điều kiện.
 Toàn cảnh di tích lịch sử Lam Kinh (Thọ Xuân – Thanh Hoá)
Như vậy việc sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử trong giảng dạy phần lịch sử Việt Nam lớp 10 có ý nghĩa rất quan trọng để tạo biểu tượng cho học sinh, đồng thời khắc sâu kiến thức cần ghi nhớ của bài học, truyền đạt cho học sinh niềm tự hào dân tộc để truyền thống đó được phát huy qua các thời kì lịch sử. 
Muốn được như vậy giáo viên phải tích luỹ nhiều tư liệu lịch sử, có nhiều kiến thức chi tiết, phong phú và sống động, biết kết hợp giữa các phương pháp lên lớp để vận dụng tốt kiến thức của mình vào bài giảng. Đồng thời hướng dẫn học sinh tự học ở nhà hoặc đọc các tài liệu tham khảo khi học sinh có hứng thú muốn tìm hiểu thêm về các nhân vật lịch sử khác để bổ sung cho các bài học tiếp theo.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 
	Quá trình vận dụng sáng kiến “ Sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử trong dạy học lớp 10 phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X-XV”, tôi nhận thấy học sinh rất hào hứng trong các giờ học lịch sử, các em luôn hứng thú với các tiết học tiếp theo mà có các nhân vật lịch sử, thậm chí có những em còn tự sưu tầm trước tư liệu về các nhân vật lịch sử sau đó hỏi giáo viên những nội dung liên quan đến bài học mà em chưa hiểu rõ. Vì vậy mỗi buổi học các em lại được biết thêm về một nhân vật lịch sử mới, đồng nghĩa với đó là việc ghi nhớ kiến thức được dễ dàng hơn, tạo hứng thú hơn cho các giờ học tiếp theo.
	Kết quả đạt được sau kì thi khảo sát chất lượng học kì II, năm học 2019-2020 như sau:
 Chất lượng
Lớp- Sĩ số
 Giỏi
 Khá
Trung bình
 Yếu
 SL
 %
 SL
 %
 SL
 %
 SL
 %
10 B1- 41
 1
 2,4
 18
43,9
 15
 36,5
 7
 17,2
10 B2- 39
 2
 5,1
 20
51,4
 12
 30,7
 5
 12,8
10 B3- 39
 2
 5,1
 18
46,2
 11
 28,2
 8
 20,5

	Tuy kết quả trên đây còn khiêm tốn nhưng nó phần nào khẳng định hiệu quả của việc áp dụng giải pháp vào quá trình giảng dạy. Đồng thời tôi cũng rút ra một số kinh nghiệm để góp phần sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử vào dạy học lịch sử có hiệu quả hơn như sau:
	- Giáo viên trước hết phải nắm vững nội dung bài dạy lịch sử từ đó nắm vững các câu chuyện về các nhân vật lịch sử làm cơ sở cho việc lựa chọn biện pháp truyền đạt phù hợp.
- Giáo viên phải sử dụng phương pháp kể chuyện như thế nào và mức độ ra sao để vừa thu hút học sinh vừa phát huy tính tích cực của các em.
	- Trong bài giảng, phương pháp kể chuyện phải sử dụng kết hợp với các phương pháp dạy học lịch sử khác một cách đồng bộ và nhuần nhuyễn như phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan như máy chiếu, phiếu tham dò... để nâng cao tính tích cực của học sinh, làm bài giảng sinh động có hiệu quả.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
 Sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử trong dạy học có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp học sinh thông qua tư liệu kênh hình, kênh chữ, videođể tác động đến nhận thức và trực quan cho học sinh, giúp các em khắc sâu hơn nội dung kiến thức bài học, giáo dục tinh thần, ý thức rèn luyện, tu dưỡng theo tấm gương những người đi trước. Ngoài ra việc tập trung giới thiệu về các nhân vật lịch sử tiêu biểu trong phần lịch sử Việt Nam thời trung đại giúp học sinh có cái nhìn toàn diện, hiểu biết thêm về tính cách nhân vật, cách cầm quân, trị quốc của những bậc hiền tài để khắc sâu hơn kiến thức lịch sử dân tộc. Với thực tế giảng dạy, tôi thấy rằng giải pháp này có thể áp dụng để tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả trong dạy học lịch sử của nhà trường. Mong được các các bạn đồng nghiệp đọc và bổ sung để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
3.2. Những ý kiến đề xuất
Qua sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng tư liệu nhân vật lịch sử trong dạy học lớp 10 phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X-XV” tôi thấy rằng: Sử dụng các câu chuyện, các giai thoại về các nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử là điều thực sự cần thiết, có ý nghĩa lớn trên cả 3 phương diện giáo dục, giáo dưỡng và phát triển toàn diện học sinh. Đồng thời tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
- Các cấp lãnh đạo ngành tạo điều kiện để chúng tôi được va chạm, học hỏi đồng nghiệp qua các cuộc hội thảo.
- Các giáo viên giảng dạy phải có ý thức thường xuyên trau dồi tri thức và tìm tòi những sáng kiến mới có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm từng nơi để áp dụng vào trong giảng dạy.
- Nhà trường nên tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động giáo dục trải nghiệm tại các địa danh lịch sử, các hoạt động ngoại khoá như kĩ năng sống, sinh hoạt tập thể đầu tuần theo chủ đề để lồng ghép giới thiệu các nhân vật lịch sử để học sinh các khối lớp khác cũng có điều kiện để tìm hiểu thêm.
Trên đây là một số ý kiền đề xuất của tôi, rất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và sự quan tâm của Hội đồng sư phạm nhà trường cũng như Ban Giám đốc để sáng kiến kinh nghiệm được phát huy hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 17 tháng 7 năm 2020
 Tôi xin cam đoan đây là Sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
 Lê Thị Lan Anh
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thế thứ các triều vua Việt Nam- Tác giả Nguyễn Khắc Thuần- NXB Giáo dục.
2. Thiết kế bài giảng lịch sử ở trường trung học phổ thông- Tác giả Giáo sư Phan Ngọc Liên(chủ biên)- NXB Đại học quốc gia.
3. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử 10, 11- Tác giả Nguyễn Thị Côi(chủ biên)- NXB Đại học sư phạm.
4. Bách khoa tri thức phổ thông - NXB Văn hoá thông tin
5. Giới thiệu Giáo án lịch sử 10 (Chương trình cơ bản) Nguyễn Xuân Trường (Chủ biên), Lê Thị Thu Hương-Trần Thị Thái. Nhà xuất bản Hà Nội – Năm 2006
6. Lịch sử 10 . Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhà xuất bản Giáo dục-Năm 2008.
7. Đại cương Lịch sử Việt Nam. Tập I. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh. Nhà xuất bản Giáo dục – Năm 1998.
8. Internet

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_tu_lieu_nhan_vat_lich_su_day_h.docx