Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu về truyền thống giáo dục, khoa bảng huyện Diễn Châu thời phong kiến trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Lịch sử dân tộc ta là những trang sử hào hùng và oanh liệt của mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đó là lịch sử của những chiến công hiển hách, của những thắng lợi vẻ vang, của truyền thống văn hiến lâu đời, với những tên làng, tên đất, những dòng họ khoa bảng, những quê hương anh hùng... tất cả đã tạo thành những truyền thống tốt đẹp mà không phải dân tộc nào, đất nước nào cũng có được. Để những truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc ngày càng được hun đúc và phát huy tác dụng thì việc giáo dục truyền thống lịch sử càng phải được quan tâm và đẩy mạnh trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.

Là một bộ phận của lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương có một vai trò đặc biệt quan trọng, giữa lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương có mối quan hệ không thể tách rời. Lịch sử địa phương chính là một bộ phận cấu thành của lịch sử dân tộc. Bởi vậy, lịch sử địa phương là một nguồn kiến thức rất cần thiết đối với học sinh. Những tri thức lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể, là sự minh họa của lịch sử dân tộc. Nó chứng minh sự phát triển hợp quy luật ở mỗiđịa phương trong sự phát triển chung của đất nước. Nó ghi lại những thành quả lao động, những thành tựu văn hóa, những truyền thống khoa bảng, những chiến công oanh liệt của nhân dân các địa phương trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

docx 83 trang SKKN Lịch Sử 11/09/2025 90
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu về truyền thống giáo dục, khoa bảng huyện Diễn Châu thời phong kiến trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu về truyền thống giáo dục, khoa bảng huyện Diễn Châu thời phong kiến trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu về truyền thống giáo dục, khoa bảng huyện Diễn Châu thời phong kiến trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
 địa phương một cách thường xuyên, có hệ thống, có mục đích, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ của bộ môn.
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của chúng tôi tập trung giải quyết vấn đề về việc sử dụng tư liệu lịch sử về truyền thống giáo dục khoa bảng địa phương trong dạy học lịch sử dân tộc. Vì thế trước hết phải đảm bảo thực hiện chương trình quy định, mặt khác phải được tổ chức và tiến hành một cách linh hoạt nhằm thực hiện những nhiệm vụ của bộ môn. Việc lựa chọn nội dung và hình thức dạy học phải thỏa mãn các điều kiện: Theo nội dung chương trình quy định, khả năng của giáo viên, trình độ và tâm lý nhận thức của học sinh, điều kiện cụ thể của địa phương và nhà trường. Về phương pháp dạy học phải tuân thủ những nguyên tắc của việc dạy học lịch sử nói chung nhưng cần chú ý đặc biệt đến phương pháp trình bày miệng, trao đổi đàm thoại, sử dụng đồ dùng trực quan... Thực hiện nguyên tắc dạy học nhằm phát triển, phát huy tính tích cực, độc lập, chủ động nhận thức của học sinh. Giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn các em tham gia xây dựng, lĩnh hội nội dung bài học với các biện pháp: Ra bài tập thực hành, tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận, tận dụng nguyên tắc dạy học nêu vấn đề và nguyên tắc dạy học liên môn... Chú ý nâng cao dần chất lượng hoàn thành bài tập cho các em.
Kết quả nghiên cứu đề tài của chúng tôi góp phần làm phong phú thêm nội dung và phương pháp dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT Diễn Châu. Có thể vận dụng để giảng dạy trong những giờ học lịch sử dân tộc, cũng có thể dạy những tiết lịch sử địa phương cho các lớp, khối tùy vào sự linh động của giáo viên.
Kiến nghị:
Giáo viên bộ môn lịch sử ở trường THPT cần không ngừng rèn luyện, trao đổi chuyên môn nghiệp vụ nói chung và lịch sử về truyền thống giáo dục khoa bảng nói riêng để đáp ứng yêu cầu và thực hiện có hiệu quả việc dạy học – giáo dục lịch sử địa phương cho học sinh.
Hiện nay, việc sử dụng tư liệu lịch sử về truyền tthống giáo dục khoa bảng ở trường THPT vẫn giữ vị trí, ý nghĩa quan trọng của nó. Tuy nhiên đề tài sáng kiến của chúng tôi không thể giải quyết trọn vẹn được các vấn đề, cũng như đáp ứng tất cả yêu cầu của giáo viên bộ môn lịch sử ở trường THPT trên địa bàn Diễn Châu. Nhưng đây cũng là đóng góp không nhỏ của tôi với lòng mong muốn và hi vọng việc sử dụng tư liệu lịch sử về truyền thống giáo dục khoa bảng trong nhà trường THPT Diễn Châu nói riêng, và việc dạy học lịch sử địa phương trong trường THPT nói chung được đi vào nề nếp, thực hiện có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.
Cuối cùng tôi mong rằng đề tài sẽ được vận dụng vào việc giảng dạy Lịch sử lớp 10 từ thế kỷ X-XIX chương trình sách giáo khoa Lịch sử - chương trình chuẩn tại các trường THPT trên địa bàn huyện Diễn Châu và trên toàn tỉnh Nghệ An.
Trong quá trình làm đề tài, bản thân đã hết sức cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những sai sót. Vậy kính mong các thầy cô giáo, các đồng nghiệp góp ý kiến bổ sung để đề tài đạt kết quả cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Diễn Châu,ngày 30 tháng 03 năm 2019
Người thực hiện đề tài
Nguyễn Thị Vân Anh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ban chấp hành Đảng bộ huyện Diễn Châu – Lịch sử Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam huyện Diễn Châu 1930 – 2005, NXB lao động – Xã hội, 2005
2.
Bộ Giáo dục – Đào tạo (2002 - 2007), Phân phối chương trình môn lịch sử phổ thông. Nhà xuất bản giáo dục
3.
Bộ Giáo dục – Đào tạo (2002 – 2007), Bộ sách giáo khoa trung học phổ thông từ lớp 6 – 12. Nhà xuất bản giáo dục
4.
Huyện ủy – HĐND – UBND Huyện Diễn Châu, Diễn Châu kể chuyện 1380 năm. Nhà xuất bản Nghệ An
5.
Ngô Đức Thọ - Các nhà khoa bảng Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 1993
6.
Nguyễn Lương Bích (1963), Mấy ý kiến về công tác nghiên cứu lịch sử địa phương. Tạp chí nghiên cứu lịch sử - Số 48, tháng 3
7.
Huyện ủy – HĐND – UBMTTQ huyện Diễn Châu (2005), 1380 năm Diễn Châu (627 - 2007), nhà in báo Nghệ An
8.
Huyện ủy, UBND huyện Diễn Châu (2005), Diễn Châu tự hào nhịp bước tiên phong. Sở văn hóa thông tin Nghệ An.
9.
Ninh Viết Giao (2007) Diễn Châu 1380 năm, lịch sử - Văn hóa nhân vật. Nhà xuất bản Nghệ An.
10.
Ninh Viết Giao, Trần Hữu Thung (chủ biên)(1995), Diễn Châu, địa chí văn hóa và làng xã. NxB Nghệ An, Vinh
11.
PGS.TS Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên), Đỗ Hồng Thái (1999), Lịch sử địa phương. Nxb Giáo dục.
12.
Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị (chủ biên)(1992), Phương pháp dạy học lịch sử. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Tái bản có sửa chữa, bổ sung (1998, 1999, 2000).
13.
Đậu Hồng Sâm (2007): Diễn Châu xưa và nay. Nhà xuất bản Lao động và xã hội
14.
V.A.Xukhômlinxki (1998), Giáo dục con người chân chính như thế nào?. Nxb GD, Hà Nội.
15.
Trương Hữu Quýnh, Phan Ngọc Liên...(1989), Lịch sử địa phương. Nxb Hà Nội.
16.
Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi (2002),


Phương pháp dạy học lịch sử, tập II, NXB Đại học sư phạm.
17.
Trần Kim Đôn (2004), Địa lý các huyện, thành phố, thị xã tỉnh Nghệ An. Nxb Nghệ An
18.
Bộ Giáo dục và đào tạo, Sách giáo viên Lịch sử 10, NXB Giáo dục, năm 2006
19.
Bộ Giáo dục và đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch Sử lớp 10, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2009.

PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả khảo sát tình hình thực tế dạy học lịch sử địa phương và lịch sử về truyền thống giáo dục khoa bảng
(Sơ bộ về kết quả khảo sát thực tế)
Để nắm và đánh giá được tình hình sử dụng tư liệu lịch sử địa phương và tư liệu về truyền thống giáo dục khoa bảng ở trường học trên địa bàn tỉnh Nghệ An, từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, tác giả đề tài “Sử dụng tư liệu về truyền thống giáo dục, khoa bảng huyện Diễn Châu thời phong kiến trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông” đã khảo sát 7 trường trên 9 trường trên địa bàn huyện Diễn Châu; với ba đối tượng chính là: các nhà quản lý, giáo viên và học sinh, Tổng số phiếu là 900 Đối tượng 1: Nhà quản lý: 20 phiếu; đối tượng 2: giáo viên: 20; đối tượng 3: học sinh với 860 .Tổng hợp kết quả như sau:
Về thực tế vận dụng tư liệu lịch sử địa phương và tư liệu về khoa bảng:
Số trường có sử dụng tư liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử dân tộc : 12%
Số trường có sử dụng tư liệu về giáo dục khoa bảng huyện Diễn Châu trong dạy học lịch sử dân tộc là 8%
Số lượng trường lồng tiết học lịch sử Địa phương vào hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo là 35%;
Số trường đưa tư liệu lịch sử địa phương và tư liệu giáo dục khoa bảng vào tham gia hội thi là 30%;
Về tài liệu giáo trình lịch sử địa phương:
Số trường có tài liệu học lịch sử địa phương và lịch sử khoa bảng cho học sinh: 13 %
Số trường có tài liệu địa phương và tài liệu giáo dục khoa bảng ở dạng tự soạn, dạng sách tham khảo: 4%
Về nguyện vọng đưa tư liệu lịch sử địa phương và tư liệu giáo dục khoa bảng vào dạy học lịch sử dân tộc, vào hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo
Giáo viên : 87%.
Học sinh: 67,3 %.
Tiết 33
Phụ lục 2:	GIÁO ÁN ĐỐI CHỨNG
LÞch sö ®Þa ph-¬ng
GIÁO DỤC NGHỆ AN THỜI PHONG KIẾN (THẾ KỶ X - XIX)
MỤC TIÊU
Kiến thức:
Giúp HS thấy được tình hình giáo dục khoa cử ở Nghệ An trong giai đoạn từ TK X đến TK XIX
HS biết được những thành tích, những tấm gương tiêu biểu của cư dân Nghệ An trên con đường học vấn
Tư tưởng:
-	Học sinh cần phát huy truyền thống học tập của quê hương, noi theo những tấm gương hiếu học, từ đó rèn luyện tu dưỡng bản thân, không ngừng cố gắng học tập để làm rạng ngời quê hương xứ Nghệ
Kỹ năng:
Rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghiên cứu, tự tìm hiểu, tự đánh giá
Kỹ năng từ thực tế để rút ra bài học cho bản thân
THIẾT BỊ DẠY HỌC
Sách lịch sử địa phương, giáo án
Một số tài liệu, tranh ảnh liên quan đến nội dung bài hoc
III. TỔ CHỨC DẠY HỌC
Ổn định lớp
Kiểm tra bài cũ:
- Nhận xét về phong trào đấu tranh của nhân dân ta dưới thời kỳ nhà Nguyễn
Tổ chức dạy học
Dẫn dắt bài mới: Nghệ An là vùng đất cổ, gắn liền với tiến trình lâu dài của lịch sử dân tộc. Nghệ An không chỉ là vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng mà còn là nơi có bề dày văn hóa, nhất là truyền thống khoa bảng và hiếu học góp phần làm rạng danh lịch sử - văn hóa Việt Nam.
Tổ chức dạy học
Hoạt động của GV và HS
Kiến thức cơ bản
Hoạt động 1: Cả lớp, cá nhân
GV: Yêu cầu HS đọc sách lịch sử địa phương Nghệ An và dựa trên cơ sở hiểu biết của mình hãy nêu tình hình giáo dục Nghệ An từ TK X đến cuối TK XIV
HS: trình bày
GV: Nhận xét, kết luận
Giáo dục Nghệ An từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIV
Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê: nhà nước chưa có điều kiện chăm lo giáo dục
Thời Lý: Giáo dục Nghệ

GV: Em hãy cho biết từ TK X đến TK XIV Nghệ An có những nho sĩ tiêu biểu nào?
HS: - Bạch Liêu quê ở Nguyên Xá, huyện Đông Thành, nay thuộc Mã Thành, Yên Thành, giành ngôi trại trạng nguyên (vị "tổ khai khoa” xứ Nghệ)
Ba cha con, ông cháu: Hồ Tông Thốc, Hồ Tông Đốn, Hồ Tông Thành quê ở Thọ Thành, Yên Thành ngày nay: đậu trạng nguyên
Hoạt động 2: Cả lớp
GV: Em hãy cho biết giáo dục Nghệ An từ TK XV đến TK XVIII đạt được những thành tích tiêu biểu nào?
Thời Lê sơ: Giáo dục Nghệ An khởi sắc
+ Trường thi Hương Nghệ An ban đầu được xây dựng dưới triều vua Lê Thái Tông ở xã Nghĩa Liệt nay xã Hưng Lam – Hưng Nguyên
+ Trong các khoa thi tổ chức ở Minh Kinh sĩ tử xứ Nghệ tham gia đông, đỗ đạt cao, trở thành những nhà chính trị, quân sự, ngoại giao xuất sắc.
+ Triều Lê Sơ có 57 người đậu trong 44 khoa thi. Tiêu biểu như: Thái Tất Tiên, xã Do Lễ nay thuộc xã Hưng Nhân huyện Hưng Nguyên, đậu đệ tam giáp Tiến sĩ, Cao Quýnh, người Cao Xá, huyện Đông Thành nay xã Diễn Thành, Diễn Châu đậu đệ nhất giáp tiến sĩ, thám hoa, làm quan đến đại học sĩ
Thời Mạc: giảm sút (tiêu biểu có: Nguyễn Văn Thực nay thuộc xã Diễn Liên huyện Diễn Châu, đậu khoa 1532, Nguyễn Minh Châu ở Nghi Trung, Nghi Lộc)
Thời đất nước bị chia cắt: Nghệ An có 37 người đậu đại khoa (1554 - 1787), tiêu biểu có hai cha con: Ngô Trí Tri và Ngô Trí Hòa, ở Diễn Kỷ, Diễn Châu.
Thời vua Quang Trung: mở khoa thi hương ở Nghệ An và ban chiếu lập học
→Từ TK XVI – XVIII, xứ Nghệ đã đào tạo cho chính quyền phong kiến một đội ngũ quan lại có đức, có tài, giữ những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực chính trị,
ngoại giao, văn hóagóp phần làm rạng danh lịch sử
An vẫn chưa được nhà nước quan tâm
Thời Trần: Có chính sách khuyến khích học tập, Nghệ An có nhiều sĩ tử đỗ đạt cao
2, Giáo dục Nghệ An từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
Thời Lê sơ: Giáo dục Nghệ An khởi sắc, trở thành một trong những trung tâm khoa bảng rực rỡ
Nhà Mạc: khoa cử Nghệ An có giảm sút (chỉ có 2 trong số 485 tiến sĩ)
Thời kỳ đất nước bị chia cắt: Nghệ An có 37 người đậu đại khoa (1554 - 1787)
Thời vua Quang Trung: mở khoa thi hương ở Nghệ An và ban chiếu lập học
→Từ TK XVI – XVIII, xứ
Nghệ đã đào tạo cho chính quyền phong kiến một đội ngũ quan lại có đức, có tài, giữ những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóagóp phần làm rạng danh lịch sử dân tộc

dân tộc (Trong số 82 bia Văn Miếu ghi danh những người đỗ đạt từ năm 1442 đên 1780 thì có 57 bia có tên người Nghệ An, Hà Tĩnh)
Hoạt động 3: Cả lớp
GV: Dựa vào nội dung trong sách LSĐP em hãy cho biết những chính sách của triều Nguyễn đối với giáo dục và những chính sách đó đã có tác động như thế nào đến giáo dục Nghệ An?
GV: Em hãy nêu những thành tích tiêu biểu của giáo Nghệ An thời Nguyễn? Kể tên một số người đỗ đạt g giáo dục khoa cử thời Nguyễn?
HS: trả lời
- Một số người đỗ đạt:
+ Nguyễn Xuân Ôn (1825 - 1889) người làng Lương Điền nay là xã Diễn Thái, Diễn Châu, đậu cử nhân năm 1867, tiến sĩ năm 1871, là lãnh tụ phong trào Cần Vương
+ Cao Xuân Dục (1843 - 1923), người làng Thịnh Mỹ, tổng Cao Xá, nay là xã Diễn Thịnh, Diễn Châu, đậu cử nhân năm 1876, làm quan đến thượng thư bộ học, là nhà giáo dục, nhà sử học xuất sắc
+ Phan Bội Châu (1867 - 1940), người làng Đan Nhiễm xã Nam Hòa, Nam Đàn, đậu Giải nguyên năm 1900, là nhà cách mạng tiêu biểu
+ Nguyễn Sinh Sắc, người làng Sen, nay là làng Kim Liên, Nam Đàn.

Giáo dục Nghệ An thế kỉ XIX
Ngay sau khi thành lập, triều Nguyễn đã chăm lo giáo dục, khoa cử. Năm 1807, vua Gia Long cho dời trường thi Hương Nghệ An về phía đông nam thành Nghệ An, xây dựng nhiều trường học ở các phủ, huyện
- Từ năm 1807 – 1918, Nghệ An tổ chức 42 khoa thi Hương, đậu 802 cử nhân, trong đó có 562 người Nghệ An, cao nhất so với các trấn (tỉnh) khác trong cả nước
Trong 39 khoa thi Hội thời Nguyễn (1822 - 1919) Nghệ An có 91 người đậu trong tổng số 558 người
→ Xứ Nghệ sinh ra nhiều bậc danh hiền, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc
Củng cố
Khái quát lại nội dung bài học
Yêu cầu HS làm bài tập 2, 3 trang 8 Sách LSĐP Nghệ An
Rót kinh nghiÖm:
Phụ lục 3:	ĐỀ VÀ ĐÁP ÁN KIỂM TRA 15 PHÚT
Đề ra: Kể tên các vị đại khoa ở Diễn Châu. Rút ra những đặc điểm nổi bật của giáo dục, khoa bảng Diễn Châu thời phong kiến.
Đáp án:
Các vị đại khoa ở Diễn Châu (4 điểm)
Thế kỉ XV: Cao Quýnh đậu Đệ nhất Giáp tiến sĩ, Đệ tam danh (Thám Hoa) khoa Ất Mùi, năm Hồng Đức thứ 6 (1475) đời Lê Thánh Tông
Thế kỉ XVI: Cha con Ngô Trí Tri và Ngô Trí Hòa cùng đỗ Tiến Sĩ (Hoàng Giáp) khoa Nhâm Thìn năm Quang Hưng thứ 15 (1592), lúc đó Ngô Trí Tri 56 tuổi, còn Ngô Trí Hòa 28 tuổi
Thế kỉ XIX: Nguyễn Xuân Ôn: đậu Tiến sĩ năm 1871
Đặc điểm nổi bật của giáo dục khoa bảng Diễn Châu thời phong kiến (6 điểm)
Diễn Châu là huyện có nhiều vùng đất khoa bảng: Nho Lâm, Linh Kiệt, Bút Điền, Bút Trận, Văn Hiếu, Xuân Nho, Văn Vật, Văn Tập, Thư PhủTrong đó, Nho Lâm là nơi có khoa bảng nhiều nhất ở Diễn Châu với 318 người đỗ đạt và đứng thứ 2 ở Nghệ An sau Quỳnh Đôi.
Diễn Châu là huyện có nhiều dòng họ khoa bảng: Đấy là họ Ngô ở Lý Trai liên tiếp bốn đời đỗ 5 tiến sĩ, họ Đặng ở Nho Lâm ba cha con đỗ đại khoa, hai anh em đỗ đồng khoa. Đấy là những dòng họ có nhiều người đỗ đạt cao như họ Nguyễn Xuân ở Diễn Thái, họ Cao Xuân ở Diễn Thịnh, họ Trần Huy ở Diễn Phong, họ Hoàng ở Diễn Cát... Tiêu biểu nhất trong các dòng họ khoa bảng ở Diễn Châu phải kể tới dòng họ Ngô, 5 đời có người đỗ tiến sỹ liên tục và là dòng họ có nhiều người đỗ đạt nhất trong các kỳ khoa cử ở Diễn Châu. Theo thống kê, họ Ngô ở Nghệ An tính từ thời cụ Ngô Định về sau có đến 18 vị đỗ đạt từ Tam trường trở lên, trong đó có 6 vị đỗ Tiến sĩ là Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa, Ngô Sỹ Vinh, Ngô Quang Tổ, Ngô Công Trạc và Ngô Hưng Giáo.
Diễn Châu có nhiều vị đỗ đại khoa
Cao Quýnh: đậu Đệ nhất Giáp tiến sĩ, Đệ tam danh (Thám Hoa) khoa Ất Mùi, năm Hồng Đức thứ 6 (1475) đời Lê Thánh Tông
Ngô Trí Tri đỗ Tiến Sĩ (Hoàng Giáp) khoa Nhâm Thìn năm Quang Hưng thứ 15 (1592), lúc đó Ngô Trí Tri 56 tuổi,
Ngô Trí Hòa: đỗ Tiến Sĩ (Hoàng Giáp) khoa Nhâm Thìn năm Quang Hưng thứ 15 (1592), lúc đó Ngô Trí Hòa 28 tuổi
Nguyễn Xuân Ôn: đậu Tiến sĩ năm 1871
- Diễn Châu có nhiều vị đỗ đầu hai khoa: Song nguyên Cao Quýnh và song nguyên Ngô Công Trạc
Diễn Châu có những vị chỉ đỗ trung khoa nhưng làm quan đến nhất phẩm: Nguyễn Trung Mậu và Cao Xuân Dục.
Phụ lục 4:	MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÁC NHÂN VẬT, NHÀ THỜ HỌ KHOA BẢNG
Hình 1: Cao xuân Dục
Hình 2: Lễ đón nhận Kỷ lục Việt Nam của dòng họ Ngô Lý Trai
Hình 3: Phan Bội Châu
Hình 4: Nhà Thờ họ Cao – Diễn Thành – Diễn Châu – NA
Phụ lục 5: MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_tu_lieu_ve_truyen_thong_giao_d.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tư liệu về truyền thống giáo dục, khoa bảng huyện Diễn Châu thời phong.pdf