Sáng kiến kinh nghiệm Sưu tầm tư liệu và biên soạn tài liệu giảng dạy Lịch sử, Địa lý địa phương huyện Thường Xuân cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân
Trong giáo dục phổ thông, các môn xã hội nói chung, môn Lịch sử nói riêng có vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh và tư duy của con người. Bác Hồ kính yêu từng dạy “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Do vậy, dạy lịch sử không chỉ giúp học sinh nắm được lịch sử hình thành của một quốc gia, dân tộc mà còn hình thành ở các em lòng tự hào để từ đó các em thêm yêu quê hương, đất nước mình hơn.
Đối với bậc Tiểu học môn lịch sử chưa phải là môn học riêng như các cấp học khác mà nó chỉ là một phần của môn Lịch sử và Địa lý lớp 4 – 5 vì vậy dung lượng, thời lượng dạy học chỉ có 1 tiết/tuần, mục tiêu chỉ nhằm giới thiệu các giai đoạn, các sự kiện lịch sử cho học sinh nắm bắt sơ bộ để học lên ở các bậc học sau này.
“Có thể nói, lịch sử dân tộc hay lịch sử địa phương đều là dựng lại quá khứ về lòng yêu nước, về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta trong dựng nước và giữ nước, ghi lại những nét văn hóa truyền thống, tinh thần nhân đạo sâu sắc của dân tộc Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển. Bởi qua mỗi bài học, mỗi sự kiện lịch sử, học sinh sẽ có thêm niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng. Từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước, các em sẽ tự hào và ý thức hơn về tình yêu quê hương, đất nước. Qua đó, các em ra sức học tập, rèn luyện để trở thành những con người có ích góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”[3]
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sưu tầm tư liệu và biên soạn tài liệu giảng dạy Lịch sử, Địa lý địa phương huyện Thường Xuân cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân

n tộc Việt Nam. Thường Xuân là một vùng đất cổ, đã qua quá trình hình thành và phát triển hàng ngàn năm lịch sử với các thời kì như sau: Thời thuộc Hán là vùng đất huyện Vô Biên. Thời Tam Quốc đến nhà Tuỳ thuộc huyện Di Phong. Thời Đường thuộc đất của huyện Trường Lâm. Thời Đinh, Lê, Lý vẫn giữ như thời Đường. Thời Trần, Hồ và thời thuộc Minh gồm 2 phần thuộc các huyện huyện Nga Lạc (châu Thanh Hoá),huyện Nông Cống (châu Cửu Chân). Thời Lê vẫn thuộc đất của huyện Nga Lạc và huyện Nông Cống. Thời nhà Nguyễn (1835) thuộc châu Lang Chánh. Năm (1837), châu Thường Xuân (còn gọi là Châu Thường) ra đời. Sau cách mạng tháng Tám 1945, châu Thường Xuân đổi thành huyện Thường Xuân và giữ nguyên cho đến hôm nay. Huyện Thường Xuân có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường, Kinh. Dân tộc Thái chiếm 53% dân số, dân tộc Kinh chiếm 43,3% dân số dân tộc Mường chiếm 3,7% dân số. Từ xa xưa, nhân dân các dân tộc huyện Thường Xuân có truyền thống đoàn kết, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, sáng tạo những giá trị văn hóa cao đẹp. - Huyện Thường Xuân thành lập năm nào? - Khi thành lập đến nay Thường Xuân có những tên gọi như thế nào? - Em hãy nêu đặc điểm dân cư huyện Thường Xuân ? 2. Văn hóa truyền thống danh nhân và các danh lam thắng cảnh: Múa quanh cây hoa (cây nêu) kết hợp biểu diễn cồng chiêng, khua luống của phụ nữ bản Lùm Nưa. Văn hóa Thường Xuân là văn hóa giao thoa giữa văn hóa của 3 dân tộc Thái, Mường, Kinh. Dân tộc Thái với Khặp (hát) Thái là những bài thơ, văn vần tự sáng tác để hát, ngâm vịnh có đệm đàn và múa là nghệ thuật độc đáo. Múa Thái gọi là xòe, điệu xòe phổ biến nhất là nhảy sạp được đệm thêm tiếng khua luống, trống chiêng. Lễ hội Nàng Han ở xã Vạn Xuân là một trong những lễ hội truyền thống của người Thái Thường Xuân. Dân tộc Mường có kho tàng truyện kể, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là sử thi "Đẻ đất đẻ nước" nhắc nhở con cháu ghi nhớ cội nguồn. Các bài dân ca như hát bọ mệnh, hát dặm, hát đúm, hát đối đáp, hát giao duyên; phong tục thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, tổ chức lễ thượng điền, hạ điền, tết Nguyên tiêu, lễ hội xéc bùa, lễ hội Pôồn Pôồng hát múa quanh cây hoa ước mong cuộc sống yên lành. Dân tộc Kinh ở Thường Xuân sinh sống chủ yếu bằng nghề cấy lúa nước, trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá. Làng của người Kinh ở các xã Xuân Dương, Thọ Thanh mang đặc điểm làng nông thôn xứ Thanh và Bắc Bộ: có cây đa, bến nước, sân đình. Các làng Thọ Thanh, Xuân Dương đều có đình, đền, miếu; những ngày hội làng có hát chèo, tuồng, hát giao duyên, tổ chức trò chơi. Làng Hún (Xuân Dương) có lệ tục mừng vía cho ông bà, cha mẹ (cả khi đã chết) vào ngày đầu năm mới. Thổ âm của làng Hún cũng là hiện tượng hết sức độc đáo trong ngôn ngữ xứ Thanh. Khu đền thờ Cửa Đặt Dâng hương đầu xuân tại di tích Hội thể Lũng Nhai Thường Xuân có rất nhiều di tích và danh thắng gắn với truyền thống dựng nước và giữ nước của các dân tộc như Hội thề Lũng Nhai ở xã Ngọc Phụng, đền thờ sĩ phu yêu nước Cầm Bá Thước, đền thờ Bà Chúa Thượng ngàn ở xã Xuân Cẩm và Xuân Mỹ nay thuộc xã Vạn Xuân. Thác Trai gái ở xã Xuân Lẹ, thác Thiên Thủy ở xã Vạn Xuân ... khu du lịch sinh thái bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên cùng hồ Cửa Đặt đã tạo nên một chuỗi danh lam thắng cảnh góp phần đưa Thường Xuân trở thành một điểm du lịch trên bản đồ du lịch của tỉnh Thanh Hóa. Anh hùng Lò Văn Bường Đất Thường Xuân còn ghi lại dấu tích, dấu ấn văn hóa các cuộc khởi nghĩa gắn với con người, vùng đất Thường Xuân. Thế kỷ XV, Lê Lai, Lê Lợi tổ chức hội thề Lũng Nhai. Thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, ở Thường Xuân, đồng bào các dân tộc đoàn kết chiến đấu dưới ngọn cờ chống Pháp của nhà ái quốc Cầm Bá Thước. Căn cứ Trịnh Vạn (thuộc thôn Bù Đồn, xã Vạn Xuân) đi vào lịch sử dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, huyện Thường Xuân đã đóng góp sức người và của cải vật chất cho kháng chiến, có 3 xã và 5 người con ưu tú của huyện được phong tặng danh hiệu anh hùng đó là xã Xuân Dương, xã Thọ Thanh và xã Tân Thành. Anh hùng Lò Văn Bường ở xã Xuân Lẹ, anh hùng Lê Thị Cửu ở xã Xuân Dương, anh hùng Hà Văn Thanh ở xã Lương Sơn, anh hùng Cầm Bá Trùng ở xã Luận Khê, anh hùng liệt sĩ Ngô Khắc Quyền ở xã Thọ Thanh và 14 bà mẹ liệt sỹ được nhà nước phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng. Các dân tộc ở Thường Xuân có những nét văn hóa như thế nào? Hãy kể tên một số di tích lịch sử và danh nhân anh hùng ở Thường Xuân? C- Thị trấn Thường Xuân – Trung tâm Văn hóa – Kinh tế - Chính trị của huyện Thường Xuân. Thị trấn Thường Xuân thành lập ngày 03/06/1988 trên cơ sở một phần đất và dân số của các xã Ngọc Phụng và Xuân Dương. Thời kì đầu có các thôn là: Ngọc Lâm, Đồng Tâm, Đồng Lực, Quyết Thắng, Tân Long; nay lần lượt dược đổi tên là các Khu phố 1, Khu phố 2, Khu phố 3, Khu phố 4, Khu phố 5. Thị trấn Thường Xuân nằm ở phía Đông của huyện Thường Xuân. Phía Bắc giáp xã Ngọc Phụng, phía Đông giáp xã Xuân Dương, phía Nam giáp xã Thọ Thanh, phía Tây giáp xã Xuân Cẩm. Quốc lộ 47 chạy xuyên suốt hết chiều dài về phía tây bắc nên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ăn, buôn bán. Diện tích 2,73 km2 địa hình thấp dần từ tây sang đông, điểm cao nhất của là đồi Chẹ, điểm thấp nhất là khu vụng Vạo thuộc Khu phố 1. Khí hâu thuộc kiểu khí hậu trung du miền núi, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 25 đến 280C. Thị trấn Thường Xuân không có sông suối chảy qua mà chỉ có 2 hồ nhân tạo là hồ Ngọc Vàng ở khu phố 4 và hồ Bệnh Viện ở khu phố 2 làm nhiệm vụ điều hòa và tưới tiêu thủy lợi. Thị trấn Thường Xuân là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của huyện nên là nơi đặt các cơ quan như UBND huyện, huyện Ủy, Công an, Quân sự Dân cư của bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Thái, Mường trong đó dân tộc kinh chiếm hơn 90% dân số. Hiện nay dân số là 6 672 người (theo điều tra năm 2017). Nghề nghiệp của nhân dân phần lớn là buôn bán nhỏ và làm tiểu thủ công nghiệp, một phần là làm nghề nông nghiệp, trồng trọt và dịch vụ. Về văn hóa – y tế thì cả 3 trường học của 3 bậc học đều đạt chuẩn quốc gia, trạm Y tế đạt chuẩn quốc gia về Y tế. Trên địa bàn Thị trấn Thường Xuân còn lưu giữ các địa danh gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của anh hùng dân tộc Lê Lợi như ngã ba Đồng Chó với truyền thuyết kể lại rằng, khi Lê Lai giả làm Lê Lợi, mặc áo vua để quân địch truy đuổi đã chạy về đây thì đàn chó của quân địch xồ đến, đường cùng, ông chạy trốn vào một gốc đa cổ thụ, lũ chó chạy đến thì bỗng đâu một con chồn trắng từ trong hốc đa chạy ra đánh lạc hướng, làm tất cả lũ chó đổ xô đuổi theo con chồn, vì vậy mà Lê Lai đã thoát được nanh vuốt của những con ác thú. Lại nói chuyện lũ giặc chạy đến, không tìm thấy ai chúng đã xộc thẳng kiếm vào trong hốc đa. Lê Lai đã nhịn đau không kêu mà lấy áo nắm chặt lưỡi kiếm để chúng tuốt ra không để lộ vết máu. Ngã ba có cây đa cổ thụ ấy sau này được Lê Lợi đặt cho cái tên ngã ba “Đồng Chó” là như vậy, ngôi đền thờ gần Bệnh viện huyện tương truyền là được lập nên để thờ chồn trắng đó. Trải qua hơn 600 năm lịch sử cây đa cánh đồng không còn nữa nhưng vẫn còn đó cái tên và ngôi đền gắn liền với thời gian (mặc dù ngày nay không ai gọi tên đó nữa và đã có một thời gian được đổi tên là ngã ba Đồng Mới). Em hãy cho biết Thị trấn Thường Xuân thành lập năm nào và tiếp giáp với những xã nào? Em hãy nêu một số đặc điểm tự nhiên của Thị trấn? Thị trấn Thường Xuân có mấy dân tộc, dân tộc nào có số dân đông nhất? Hiệu quả của đề tài: Thực tế áp dụng tại trường trong những năm học trước khi chưa biên soạn thành tài liệu, tôi nhận thấy học sinh rất có hứng thú khi được học về quê hương mình, huyện mình, nơi mình sinh ra qua đó tôi nhận thấy: Dạy dọc lịch sử dân tộc nói chung, dạy học lịch sử - địa lý địa phương nói riêng có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Nó là hình ảnh thiết thực trong việc giáo dưỡng, giáo dục và phát tiển tư duy cho học sinh. Thứ nhất, giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương trong nhà trường làm chiếc cầu nối giữa nhà trường, học sinh, với đời sống xã hội, giữa quá khứ, hiện tại với tương lai. Thứ hai, dạy học lịch sử - địa lý địa phương trong trường tiểu học là một phương tiện quan trọng để nâng cao chất lượng kiến thức, hình thành thế giới quan khoa học và giáo dục cho học sinh lòng yêu đất nước, quê hương, góp phần cung cấp thêm một nguồn tri thức mới cho các em học sinh. Đồng thời cũng góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, lòng nhiệt tình say mê môn học. Thứ ba, giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương đóng vai trò quan trọng để phát triển tư duy cho học sinh. Giúp cho học sinh hiểu rõ hơn những khái niệm lịch sử - địa lý chung và riêng, nhận thức được các hình thái kinh tế xã hội qua từng giai đoạn phát triển của lịch sử Ngoài ra, nó còn giúp cho học sinh nắm vững hơn nữa những khái niệm khoa học hiện đại của hệ thống: “Tự nhiên – con người – xã hội”. Thấy được vai trò của con người tác động đến việc cải tạo và chinh phục tự nhiên một cách hợp quy luật, không phải là tàn phá thiên nhiên. Thứ tư, dạy học lịch sử địa phương nhằm góp phần vào việc bồi dưỡng tình cảm, trách nhiệm đối với quê hương. Thứ năm, dạy học lịch sử - địa lý địa phương là hình thành cho thế hệ trẻ lòng yêu quê hương đất nước. Thông qua nguồn tri thức giúp cho học sinh hiểu sâu sắc hơn về lịch sử - địa lý tại địa phương mình. Từ đó, học sinh sẽ hình thành, kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của cha ông. Thứ sáu, việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương có tác dụng tích cực trong việc rèn luyện khả năng thực hành cho học sinh cùng với các môn học khác và các hoạt động khác của nhà trường, gắn nhà trường với đời sống xã hội. [6] Với những ý nghĩa trên, giúp cho giáo viên và học sinh thấy rõ tầm quan trọng của việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương. Chỉ khi chúng ta hiểu biết được về quê hương thì mới có cách nhìn nhận về mối quan hệ giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc. Do đó, việc nghiên cứu, dạy học lịch sử địa phương cần được quan tâm hơn nữa. Có như vậy mới thật sự làm cho tiết học thêm phong phú và sinh động. Học sinh mới cảm thấy hứng thú khi học tập lịch sử dân tộc nói chung, của địa phương nói riêng, mới thật sự không bị lãng quên, ngày càng làm cho nhiều người nghiên cứu và tìm hiểu. Kết luận – kiến nghị Kết luận Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương trong trường tiểu học là quán triệt nguyên lý giáo dục của Đảng, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đây là vấn đề cần được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và có hiệu quả. Từ đó hình thành ở người giáo viên ý thức và trách nhiệm trong việc tìm tòi và nghiên cứu tài liệu để bài giảng lịch sử - địa lý địa phương đạt kết quả cao. Giáo viên cần nắm được khả năng, trình độ, tâm lý nhận thức của học sinh, thực hiện nguyên tắc dạy học nhằm phát huy tính tích cực, độc lập, chủ động nhận thức của học sinh. Vì vậy, cần phải có kế hoạch cụ thể về phần giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương cho mỗi năm học. [4] Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp hay hình thức dạy phải phù hợp nội dung quy định của chương trình, khả năng của giáo viên, trình độ tâm lý nhận thức của học sinh, điều kiện cụ thể của từng địa phương và nhà trường. Qua đó giúp cho cả giáo viên và học sinh đi vào nghiên cứu tìm hiểu lịch sử - địa lý địa phương. Có vậy vấn đề dạy và học lịch sử - địa lý địa phương mới thực sự có bước khởi sắc trong thời đại ngày nay. Kiến nghị: Đề tài này được áp dụng với học sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Thị trấn và các trường tiểu học khác trên địa bàn huyện, có thể mở rộng để dạy cho học sinh THCS. Các nhà trường khi áp dụng chỉ cần thay phần lịch sử - địa lý của đơn vị xã là được. Đề nghị giáo viên dành thêm thời gian để nghiên cứu bài dạy, sưu tầm tư liệu, minh chứng phục vụ giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương tại đơn vị mình. Ngoài ra cần ứng dụng công nghệ thông tin nhiều hơn nữa, có hiệu quả hơn nữa. Đề tài này không chỉ thực hiện trong năm học này, mà còn tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh trong những năm học tiếp theo để đạt hiệu quả cao hơn. Đề nghị các cấp quản lý giáo dục chỉ đạo sâu sát hơn nữa việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương tại các nhà trường để học sinh hiểu sâu hơn về quê hương nơi mình sinh ra. Trên đây là những tư liệu và nguyên tắc, phương pháp giảng dạy tiết học lịch sử - địa lý địa phương cho học sinh lớp 5. Rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, và của các cấp lãnh đạo để tài liệu hoàn thiện hơn, tiết dạy lịch sử - địa lý địa phương đạt hiệu quả cao nhất. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 24 tháng 02 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người thực hiện Trịnh Ngọc Sơn TÀI LIỆU THAM KHẢO Lịch sử Đảng bộ huyện Thường Xuân từ 1949 đến 2010 – Ban tuyên giáo Huyện Ủy Thường Xuân. Dư địa chí huyện Thường Xuân – Cổng thông tin điện tử huyện Thường Xuân. Dạy học Lịch sử địa phương cho học sinh Tiểu học tỉnh Hà Nam – Hà Thị Tâm - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Nguyễn Cảnh Minh, Phan Kim Ngọc, Tác dụng đào tạo của môn lịch sử địa phương, Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 11 – 1986. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, 2002, Phương pháp dạy học lịch sử, nhà xuất bản Đại học Sư Phạm, tập II. Đào Tố Uyên, Nguyễn Công Khanh – Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Góp thêm ý kiến về việc nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương. Tài liệu dạy hoc Lịch sử - Địa lý địa phương tỉnh Thanh Hóa - Phạm Thị Hằng, Vũ Duy Cảng, Trịnh Vĩnh Long, Trần Viết Lưu - Sở GD&ĐT Thanh Hóa – Năm học 2013 – 2014. DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỌI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN LOẠI TỪ C TRỞ LÊN Họ tên tác giả: Trịnh Ngọc Sơn Chức vụ và đơn vị công tác:Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân. TT Tên đề tài SKKN Cấp đánh giá xếp loại (Ngành GD cấp huyện/ tỉnh) Kết quả đánh giá xếp loại (A, B, hoặc C) Năm học đánh giá xếp loại. 1 Một số biện pháp quản lý và chỉ đạo hoạt động chuyên môn ở trường TH Thị trấn Phòng GD&ĐT huyện C 2004 – 2005 2 Một vài kinh nghiệm trong việc thực hiện và giữ vững chỉ tiêu PCGD ở trường Tiểu học Thị Trấn Phòng GD&ĐT huyện B 2006 – 2007 3 Một số biện pháp chỉ đạo xây dựng nề nếp Vở sạch – Chữ đẹp cho học sinh Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân Phòng GD&ĐT huyện A 2008 – 2009 4 Một số biện pháp chỉ đạo xây dựng nề nếp Vở sạch – Chữ đẹp cho học sinh Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân Sở GD&ĐT Thanh Hóa C 2008 – 2009 5 Một số kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và chỉ đạo dạy học ở Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân. Phòng GD&ĐT huyện A 2011 – 2012 6 Một số kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và chỉ đạo dạy học ở Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân. Sở GD&ĐT Thanh Hóa B 2011 – 2012 7 Một số biện pháp trong công tác quản lý và chỉ đạo thực hiện mô hình trường học mới Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng giao dục ở Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân. Phòng GD&ĐT huyện A 2014 – 2015 8 Một số biện pháp trong công tác quản lý và chỉ đạo thực hiện mô hình trường học mới Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng giao dục ở Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân. Sở GD&ĐT Thanh Hóa C 2014 – 2015
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_suu_tam_tu_lieu_va_bien_soan_tai_lieu.doc